TIN NÓNG HOÀNG SA-TRƯỜNG SA, BIỂN ĐÔNG (VIỆT NAM)

Thứ Ba, 16 tháng 7, 2024

Âm mưu cách mạng trắng ở Việt Nam

(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD)
Âm mưu cách mạng trắng
 


Thứ Tư, 13 tháng 3, 2024

CUỘC TRUY KÍCH THẦN TỐC TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7

CUỘC TRUY KÍCH THẦN TỐC TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7


Trong lịch sử cuộc kháng chiến của Dân tộc ta chưa có một cuộc rút chạy nào của địch lại thảm bại như cuộc rút chạy của Quân đoàn 2 địch trên đường 7 ( tháng 3/1975 ) . Cả một Quân đoàn với hàng vạn sỹ quan và binh lính cùng vài ngàn xe các loại , cùng rất nhiều phương tiện chiến tranh chỉ trong vòng một tuần đã gần như bị xoá sổ . Chiến thắng này đã góp phần quan trọng vào chiến thắng chung của cả nước , giải phóng hoàn toàn Miền Nam , thống nhất đất nước . Trang Lính Tây Nguyên xin giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của Trần Tiến Hoạt - Sư đoàn 320 về trận truy kích tiêu diệt Quân đoàn 2 địch tháo chạy trên đường 7 - tháng 3/1975.

CUỘC TRUY KÍCH THẦN TỐC TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7

                                       


Sau khi Buôn Ma Thuột thất thủ và đặc biệt sau khi Sư đoàn 23 , lực lượng mạnh nhất của địch ở Quân khu 2 thất bại thảm hại sau khi tổ chức tái chiếm Buôn Ma Thuột . Ngày 14/3/1975 , Tổng thống Việt Nam cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu không còn cách nào khác phải ra lệnh rút quân khỏi Cao Nguyên . Để đảm bảo bí mật , bất ngờ và an toàn cho cuộc rút chạy ! Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 địch quyết định chọn đường số 7 , một con đường đã hư hỏng nặng và bỏ hoang từ lâu để rút chạy . Để đảm bảo cho cuộc rút lui an toàn, hữu hiệu, Bộ tư lệnh quân đoàn 2 địch đã điều liên đoàn 7 biệt động quân đang trấn giữ Tây Bắc thị xã Kon Tum "ưu tiên" cho rút trước về án ngữ “đoạn đường nguy hiểm nhất” từ Đông thị xã Cheo Reo đến đèo Tu Na. Hai liên đoàn biệt động quân số 6 và 23 đang chốt giữ Thanh An, Thanh Bình (đường 19 Tây) tăng cường cho lữ đoàn 2 kỵ binh bảo vệ tuyến đường từ ngã ba Mỹ Thạch đến quận lỵ Sơn Hòa, yểm trợ cho công binh mở đường bắc cầu qua sông Ba. Lực lượng địa phương quân của hai tỉnh Phú Bốn, Phú Yên cũng được huy động tối đa vào công việc “phối trí bảo vệ lộ trình 7”.
Cuộc rút lui chiến lược lớn nhất của quân ngụy Sài Gòn bắt đầu. Suốt đêm 14 rạng ngày 15-3, sư đoàn 6 không quân liên tục chở quân và gia đinh (gồm cả người và đồ đạc) về Nha Trang. Trên đường phố thị xã Kon Tum và Plei Ku xe nhà binh chạy hỗn loạn. Hàng loạt đồn bốt , công sở bỗng bốc cháy ngùn ngụt sáng rực cả một vùng. Dân chúng đã biết cuộc “bỏ của chạy lấy người” của quân đoàn 2, cũng vội vã hè nhau chạy theo. Đường 14 Nam thị xã Pleo Ku đến ngã ba Mỹ Thạch (đầu đoạn đường 7) bỗng chật ních người và xe cộ các loại.
Trong những giờ phút đầy biến động đó, những tin tức khác thường ở hai thị xã Kon Tum và Plei Ku đều được đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh tại Mặt trận Tây Nguyên và Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên theo dõi chặt chẽ. Tối 15-3, đại diện Bộ Tổng Tư lệnh gọi điện thông báo cho Bộ Tư lệnh chiến dịch biết có hiện tượng địch rút bỏ Kon Tum , Plei Ku và chỉ thị khẩn trương chuẩn bị mọi mặt ngăn chặn và truy kích cuộc rút chạy này . 20h ngày 16/3 , Bộ Tổng tư lệnh thông báo chính thức cho Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên : Địch đã rút chạy theo đường 7 , tổ chức truy kích ngay !
Căn cứ thực tế tình hình phát triển chiến dịch, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định sử dụng Sư đoàn 320 đứng chân ở khu vực Thuần Mẫn được tăng cường một tiểu đoàn thiết giáp, một cụm pháo binh chiến dịch nhanh chóng chặn địch ở Đông Nam Cheo Reo, tiêu diệt quân đoàn 2 rút chạy . 21 giờ ngày 16-3, cả Sư đoàn 320 lao vào cuộc truy kích thần tốc kiên quyết không cho địch chạy thoát.
Cho đến bây giờ, mỗi khi nhắc lại cuộc chiến đấu hào hùng đó, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 320 vẫn chưa lý giải được cặn kẽ tại sao lúc đó với một đội hình rất phân tán: Trung đoàn 48 (thiếu Tiểu đoàn 3) đang truy quét địch ở Cẩm Ga - Thuần Mẫn; Trung đoàn 64 (thiếu Tiểu đoàn 9 đang chốt cắt đường 7B ở Tây thị xã Cheo Reo 10 km) đang đánh địch ở Đạt Lý, Phước An; Trung đoàn 9 đánh địch ở Kênh Săn (Phú Nhơn), hầu hết cách thị xã Cheo Reo từ 50 đến 130km mà họ lại có thế cơ động (bộ phận gần: 1 đêm, bộ phận xa: 1 ngày 1 đêm) đến địa điểm chiến đấu (đúng thời gian quy định, lập lá chắn thép khóa chặt bọn địch trong thung lũng Cheo Reo để tiêu diệt. Chỉ biết rằng, sau khi nhận lệnh truy kích địch trên đường 7, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 320 không còn thời gian để ngồi mà tính toán nữa. Tất cả phải hành động, hành dộng thật khẩn trương, kiên quyết thì mới có thể giành được thắng lợi. Nếu để địch chạy thoát về đồng bằng là có tội với Tổ quốc, với nhân dân, với bao chiến sĩ đã đổ máu hy sinh trên chiến trường này.
Cuộc truy kích thần tốc trước hết diễn ra ở Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 64) – những người có công đầu trong việc chốt chặn tập đoàn quân địch rút chạy. 19 giờ tối 16-3, sau khi nhận được lệnh của Sư đoàn trương Kim Tuấn: “Bằng bất cứ giá nào sáng ngày 17-3, tiểu đoàn phải có mặt ở chân đèo Tu Na để chặn địch”, cả tiểu đoàn lập tức lao vào cuộc chạy đua với quân địch. Mặc đêm tối, đường xa, dốc đá tai mèo dựng đứng, bộ đội vẫn kiên trì - động viên nhau khẩn trương vận động. Nhiều đoạn rừng rậm, khe sâu bộ đội phải dùng nứa khô, dép cao su làm đuốc soi dường để vượt qua. Địch rút chạy bằng sức 1 mạnh cơ giới. Ta đuổi địch bằng “đôi chân vạn dặm”. Tới trưa ngày 17-3, Đại đội 11 (Tiểu đoàn 9) đã đến vị trí quy định chuẩn bị nổ phát súng đầu tiên trong cuộc truy kích dịch của Sư đoàn.
Cũng trong đêm ngày 16 và ngày 17-3, cơ quan hậu cần chiến dịch và Sư đoàn 320 đã huy động hơn 100 xe ô tô cấp tốc chở Trung đoàn 64 và một số đơn vị trực thuộc đang làm nhiệm vụ ở hướng Đạt Lý, Buôn Hồ về ngã ba Thuần Mẫn . Thiếu ô tô, bộ đội chạy bộ. Xe chạy hết tốc lực. Đổ quân xuống nơi quy định, xe lập tức quay lại đón bộ phận khác đang chạy bộ. Trên hướng Bắc, Trung đoàn 9 sau khi chiếm quận lỵ Phú Nhơn đã nhanh chóng hình thành mũi tiên công phía Bắc xuống thị xã Cheo Reo. Trung đoàn 48 đã chủ động, tích cực đưa Tiểu đoàn 2 theo đường 7B áp sát phía Tây Cheo Reo...
Sáng ngày 17-3, một số xe địch chạy lọt về Củng Sơn nhưng đại bộ phận tập đoàn rút chạy của quân đoàn 2 vẫn chưa chạy thoát. Trên đường 7 hàng nghìn xe quân sự của địch nối đuôi nhau ùn ùn đổ về thị xã Cheo Reo. Chúng chạy hàng tư, hàng năm lấn ra cả hai bên bìa rừng. Trên trời máy hay hộ tống trút bom, bắn rốc két, ngăn chặn phía sau, dọn đường phía trước và hai bên.
Đoàn xe địch qua khỏi thị xã Cheo Reo 4km gặp trận địa phục kích đầu tiên của Tiếu đoàn 9 (Trung đoàn 64), cả đoàn xe nhào ra hai bên đường, chạy vào rừng. Đến chiều ngày 17-3, “cánh cửa thép” phía Đông Nam thung lũng Cheo Reo đã được khóa chặt. Lực lượng cơ bản của tập đoàn rút chạy đã bị nhốt chặt như cá nằm trong giỏ.
“Thị xã Cheo Reo, người và xe các loại chật ních không có chỗ chen chân. Nạn cướp giật hoành hành. Không khí ngột ngạt đến nghẹt thở. Mờ sáng ngày 18, địch củng cố lại đội hình, dùng hai thiết đoàn xe tăng mở đường chạy về Củng Sơn. Tiểu đoàn 9 ngoan cường, nổ súng dữ dội vào đoàn xe địch. Xe tăng, xe bọc thép liều chết mở hết tốc độ lao qua cầu Ea Nu. cầu sập. Xe và lính rơi xuống sông. Đường tắc nghẽn, địch bỏ xe tản vào rừng, lội sang sông Ba. Lúc này lực lượng lớn của Sư đoàn 320 đuổi kịp đánh thốc tới. Hàng trăm xe quân sự địch cháy nằm ngổn ngang hai bên đường và bãi sông”. Trong trận đánh táo bạo, quyết liệt này, Tiểu đội trưởng Nguyễn Vi Hợi, Đại đội 9 (Trung đoàn 64) nổi lên như một ngôi sao sáng chói. Qua hai ngày chiến đấu không biết mệt mỏi, một mình anh đã bắn cháy 12 xe bọc thép, diệt 20 tên, cùng đồng đội bắt sống 120 tên khác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Cùng trong ngày 18-3, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 48 đã cắt đứt đoạn đường từ Phú Thiện đi Cheo Reo, vây diệt 1 tiểu đoàn bảo an ở Cầu Cháy.
Thấy quân lính bị đánh quyết liệt cả bốn mặt, bọn chỉ huy địch đã cho 4 phi đội A37 và T28 oanh tạc bảo vệ đội hình. Nhưng không quân ngụy đã cuống cuồng ném bom vào liên đoàn 7 biệt động quân, làm chết và bị thương gần một tiểu đoàn, phá hủy một số xe quấn sự.
Cuộc truy kích thần tốc quân đoàn 2 ngụy của các Chiến sĩ Sư đoàn 320 mới bước sang ngày thứ hai đã thu được thắng lợi giòn giã và làm cho bọn địch hết sức nguyố. Đến nỗi tên chuẩn tướng Pham Duy Tất chỉ huy cuộc hành quân rút chạy đã phải kêu lên: “Tổn thất quá nặng nề gần như tan rã”|.
8 giờ ngày 18-3, để tạo thế tiêu diệt toàn hộ quân địch rút chạy, Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 320 nhanh chóng đánh chiếm thị xã Cheo Reo làm bàn đạp.
Chấp hành triệt để chỉ thị trên. 11 giờ ngày 18-3, Sư đoàn cho ba trận địa pháo cơ giới nhất loạt bắn phá các mục tiêu quan trọng trong thị xã. 16 giờ, từ hai hướng, Trung đoàn 48 và một bộ phận của Trung đoàn 64 mở các đợt tiến công vào sân bay, tòa hành chính, khu cố vấn Mỹ, tiểu khu Phú Bổn, trại lính Ngô Quyền, đài phát thanh... Khoảng 24 giờ, thị xà Cheo Reo, tỉnh lỵ Phú Bổn hoàn toàn giải phóng. Ta tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và hầu hết phương tiện chiến tranh của quân đoàn 2 và một số đơn vị địch.
Trong cơn nguy khốn, Phạm Văn Phú phải ra lệnh cho lính bỏ vũ khí, khí tài quân dụng nặng đi vòng rừng chạy khỏi Cheo Reo. Bọn lính còn lại phần lớn ra hàng, phần còn lại lột hết quần áo lính, mặc dân sự và bắt dân chạy trốn theo để làm bia đỡ đạn cho chúng. Nhưng một lần nữa với truyền thông “giúp dân đánh giặc” với sự thông minh, khôn khéo, bộ đội Sư đoàn 320 đã chia địch ra vây bắt, thanh lọc, bảo vệ an toàn cho nhân dân, đồng thời tuyên truyền kêu gọi nhân dân không chạy theo địch nhanh chóng trở về quê quán làm ăn.
Phát huy thắng lợi đã giành được, chỉ huy Sư đoàn 320 cho Trung đoàn 64 được tăng cường 1 tiểu đoàn thiết giáp truy đuổi lực lượng còn lại trên đoạn đương Phú Túc, Củng Sơn.
Với khí thế chiến thắng và quyết tâm không để địch chạy thoát về đồng bằng, ngày 20-3, các chiến sĩ Trung đoàn 64 và các đơn vị tăng cường đã đuổi kịp lực lượng địch chạy trước và tổ chức bao vây ngay. 17 giờ ngày 21-3, ta hoàn toàn làm chủ quận lỵ Phú Túc. 10 giờ ngày 22-3, ta làm chủ Ga Pui. Ngày 23-3, Trung đoàn 64 tiến sát quận lỵ Củng Sơn điểm co cụm cuối cùng của 6.000 tàn binh có 40 xe tăng, xe thiết giáp che chở. Ngày 24-3, được 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương Phú Yên phối hợp, Trung đoàn 64 và lực lượng thiết giáp tăng cường đã mở đợt tiến công quyết liệt, liên tục chia cắt tiêu diệt từng mảng quân địch. Đến 16 giờ, trước sức tiến công dũng mãnh của ta, đội quân ô hợp không chịu nổi phá chạy tán loạn. Đến 18 giờ cùng ngày, quận lỵ Củng Sơn hoàn toàn được giải phóng.
Thế là, sau một tuần truy kích thần tổc (17 - 24.3), Sư đoàn 320 và các lực lượng tăng cường của trên đã chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh chiến đấu của Bộ Tư lệnh chiến dịch, vượt qua mọi khó khăn gian khổ về không gian, thời gian, tiêu diệt gọn tập đoàn quân của quân đoàn 2 rút chạy, bao gồm 4 liên đoàn biệt động quân (6, 7, 23, 25), trung đoàn xe thiết giáp (3, 19, 21), đại bộ phận Sư đoàn 6 không quân và 1 tiểu đoàn quân cộng hòa, bắt gần 1 vạn tên, thu và phá hủy 1.400 xe các loại (có 90 xe tăng, 34 xe M113), giải phóng hàng chục vạn dân.
Thắng lợi của cuộc truy kích thần tốc trên đường 7 không chỉ nói lên sự trưởng thành vượt bậc về tinh thần đoàn kết hiệp đồng lập công tập thể; ý chí kiên cường, táo bạo, nắm bắt thời cơ nhạy bén và sử dụng sức mạnh thời cơ tới mức độ hoàn hảo, mà còn chứng tỏ khả năng biết vận dụng sáng tạo nghệ thuật tác chiến chiến dịch, nổi bật nhất là công tác trinh sát bám địch, công tác chỉ huy hiệp đồng tác chiến trong vận động truy kích và phục kích chốt chặn quân địch của toàn thể cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 320 nói riêng và Binh đoàn Tây Nguyên nói chung.
Thắng lợi to lớn toàn diện trên đường 7 đã đánh bại hoàn toàn âm mưu về đồng bằng co cụm để giữ vùng duyên hải đông dân và trù phú của Mỹ - ngụy. Cùng với chiến thắng Buôn Ma Thuột, Phước An, chiến thắng Đường 7 - Cheo Reo trong Chiến dịch Tây Nguyên đã góp phần mở ra thời cơ hết sức thuận lợi để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta bước vào cuộc Tổng tiến công chiến lược mở Chiến dịch Trị Thiên - Huế, Chiến dịch Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phỏng hoàn toàn miền Nam thông nhất Tố quốc.

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2024

Nhóm 72 phản đảng

(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Nhóm 72 hay Nhóm Kiến nghị 72 (KN72) là Nhóm được đặt tên theo Kiến nghị 72 là kiến nghị góp ý Sửa đổi Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992, do 72 trí thức người Việt Nam soạn thảo và đề nghị (đề ngày 19/1/2013).
Thực hiện Chỉ thị số 22-CT/T.Ư ngày 28/12/2012 Của Bộ Chính trị về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân tham gia góp ý đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, cả hệ thống chính trị và toàn dân đã tích cực tham gia vào các việc tổ chức lấy ý kiến của các cấp, các ngành, các địa phương và đơn vị trong cả nước tổ chức.
Hàng triệu lượt ý kiến tâm huyết với vận mệnh của đất nước được góp ý thẳng thắn, dân chủ và cởi mở, mang tính xây dựng với mong muốn sắp đến nước ta có một bản Hiến pháp mới hoàn chỉnh, thể hiện đầy đủ quyền và lợi ích của đất nước, của nhân dân.
Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta thấy trên diễn đàn mạng xuất hiện một số tổ chức, cá nhân lợi dụng vấn đề dân chủ trong đợt sinh hoạt chính trị này để đưa ra những quan điểm sai trái, hoàn toàn không có tính xây dựng. Nổi lên là một số người do Nguyễn Đình Lộc (sinh năm 1935), ở huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An và từng là Bộ trưởng thứ hai của Bộ Tư pháp, giai đoạn 1992-2002 cầm đầu.
Vào ngày 4-2-2013, Nguyễn Đình Lộc với vai trò là người cầm đầu “nhóm kiến nghị 72”, gọi là “nhóm nhân sĩ, trí thức”, đã trao kiến nghị sửa Hiến pháp tại Văn phòng Ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Đây thực sự là nhóm chống Đảng, chống Nhà nước. 72 tên “nhân sĩ, trí thức” chống Đảng phần lớn trong số đó là nhân sĩ, trí thức, trong đó nhiều người đã từng có vị trí cao trong xã hội, và có người đang tại chức bao gồm:
1. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
2. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu, Hà Nội
3. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP Hồ Chí Minh, TP HCM
4. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM
5. Nguyễn Huệ Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội
6. Tống Văn Công, nguyên Tổng biên tập báo Lao động, TP HCM
7. Phạm Vĩnh Cư, nhà nghiên cứu, Hà Nội
8. Nguyễn Xuân Diện, TS, Hà Nội
9. Lê Đăng Doanh, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
10. Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM
11. Nguyễn Văn Dũng, nhà văn, võ sư, Huế
12. Hồ Ngọc Đại, GS TS, nhà giáo, Hà Nội
13. Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP Hồ Chí Minh khóa 4, 5, TP HCM
14. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
15. Lê Hiền Đức, Giải thưởng Liêm chính 2007, Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Hà Nội
16. Phan Hồng Giang, TSKH, Hà Nội
17. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Giám đốc Tổng công ty Du lịch Thành phố (Saigontourist), TP HCM
18. Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
19. Nguyễn Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, Hà Nội
20. Đặng Thị Hảo, TS, Hà Nội
21. Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội
22. Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
23. Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Mặt trận, Thành uỷ TP Hồ Chí Minh, TP HCM
24. Nguyễn Xuân Hoa, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thừa Thiên - Huế, Chủ tịch Hội Văn nghệ Thừa Thiên - Huế
25. Nguyễn Văn Hồng (tức Cung Văn), nguyên Tổng Thư ký Ban chấp hành Sinh viên đoàn Đại học Văn khoa Sài Gòn 1964-1965, Đà Nẵng
26. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
27. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, Đà Nẵng
28. Trần Ngọc Kha, nhà báo, Hà Nội
29. Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM
30. Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, nguyên Phó Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
31. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới, TP HCM
32. Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
33. Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Nội
34. Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận Trung ương, Hà Nội
35. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
36. Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
37. Phạm Gia Minh, TS, Hà Nội
38. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
39. Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên Viện IDS, Hội An
40. Hạ Đình Nguyên, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
41. Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
42. Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn, Hà Nội
43. Phạm Đức Nguyên, PGS TS, giảng viên cao cấp Đại học, Hà Nội
44. Hồ Ngọc Nhuận, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc chính trị nhật báo Tin sáng, TP HCM
45. Nguyễn Hữu Châu Phan, nhà nghiên cứu, Huế
46. Hoàng Xuân Phú, GS Viện Toán học, Hà Nội
47. Trần Việt Phương, nguyên trợ lý Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
48. Nguyễn Đăng Quang, nguyên Đại tá Công an, Hà Nội
49. Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
50. Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
51. Trần Đình Sử, GS TS, Hà Nội
52. Nguyễn Trọng Tạo, nhà văn, Hà Nội
53. Lê Văn Tâm, TS, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Nhật Bản, Nhật Bản
54. Trần Công Thạch, hưu trí, TP HCM
55. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
56. Trần Thị Băng Thanh, PGS TS, Hà Nội
57. Lê Quốc Thăng, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
58. Đào Tiến Thi, thạc sĩ, Hà Nội
59. Nguyễn Minh Thuyết, GS TS, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Hà Nội
60. Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
61. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
62. Nguyễn Trung, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
63. Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
64. Hoàng Tụy, GS, Viện Toán học, nguyên Chủ tịch Viện IDS, Hà Nội
65. Lưu Trọng Văn, nhà báo, TP HCM
66. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
67. Nguyễn Viện, nhà văn, TP HCM
68. Nguyễn Hữu Vinh, doanh nhân, Hà Nội
69. Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
70. Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, Huế
71. Nguyễn Đông Yên, GS TS, Viện Toán học, Hà Nội
72. Nguyễn Phú Yên, nhạc sĩ, TP HCM
Nhóm người này đã tự xưng trong bản kiến nghị, rằng: “…chúng tôi, những người Việt Nam ký tên dưới đây… nói lên ý kiến để nhân dân ta có một Hiến pháp bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và sự phát triển bền vững của đất nước, mang lại tự do hạnh phúc cho các thế hệ hiện tại và tương lai…”. Tất nhiên là nhóm người này không quên gửi kèm bản “Dự thảo Hiến pháp 2013” - gọi là tài liệu để tham khảo, thảo luận. Điều muốn nói ở đây là trong nội dung của bản kiến nghị này, có nhiều quan điểm sai trái mà lâu nay một số người thuộc nhóm bất mãn chế độ, cơ hội chính trị, phản động ở cả trong và ngoài nước được sự “tiếp sức” của các thế lực cực đoan, thù địch sử dụng như là một chiêu bài hòng chống phá Đảng và Nhà nước ta. Theo đó, những nội dung chính của kiến nghị chống Đảng này là:
1. Đòi xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Điều 4 của Hiến pháp, với lý lẽ vừa hết sức nguỵ biện, vừa suy diễn một cách tùy tiện, có tính công kích nói xấu Đảng ta. Ai cũng hiểu rất rõ rằng, lịch sử cách mạng Việt Nam đã ghi nhận toàn bộ quá trình thực thi nội dung các bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 đều gắn liền với những thắng lợi to lớn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng của cách mạng nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Điều đó cho thấy rất rõ Đảng ta đã, đang và chắc chắn sẽ thể hiện đầy đủ vai trò là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đây là sự thật lịch sử hoàn toàn không thể phủ nhận. Do vậy, việc đòi xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến pháp là một hành động xét về mặt đạo lý thuần tuý khác gì là vô ơn, bội nghĩa cần phải lên án mạnh mẽ. Chắc chắn những nhân sĩ, trí thức chân chính không có lối hành xử thiếu nhân văn như vậy!
2. Đòi phân chia sự lãnh đạo duy nhất của Đảng, bằng cách yêu cầu thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, với lập luận “ru ngủ” những ai nhẹ dạ, mất cảnh giác như: “Việc Đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, kể cả các đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh hiện nay của đất nước”.
Với thái độ hết sức cầu thị, Đảng ta đã từng nghiêm túc thừa nhận rằng, trong quá trình lãnh đạo cách mạng cũng có lúc phạm phải những sai lầm, khuyết điểm. Đảng đã sớm nhận ra những sai lầm, khuyết điểm ấy bằng quyết tâm chính trị của mình, nhanh chóng tìm ra các giải pháp khắc phục, từng bước củng cố niềm tin nhân dân đối với Đảng. Từ sau ngày hoà bình, thống nhất đất nước cho đến năm 2013 đã 38 năm trôi qua, cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đưa đất nước ta phát triển toàn diện; từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, khó khăn, thiếu thốn trăm bề, đã vươn lên mạnh mẽ thoát khỏi nhóm các nước nghèo của thế giới, để trở thành một quốc gia đang phát triển và hội nhập quốc tế; nhân dân ta thực sự có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Vì vậy, chẳng việc gì phải có nhiều đảng để rồi đấu đá, xâu xé, tranh giành nhau quyền kiểm soát xã hội, xảy ra nội chiến như nhiều nước ở quanh ta và trên thế giới.
3. Đòi phi chính trị đối với lực lương vũ trang (LLVT), với lập luận hết sức đơn điệu và lạc lõng là: “LLVT phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào như quy định tại Điều 70 của Dự thảo”, sau đó họ ngang nhiên tuyên bố: “Chúng tôi yêu cầu bỏ quy định LLVT phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”. Đòi hỏi phi lý này của nhóm KIẾN NGHỊ 72 là thật lố bịch! Ai cũng biết rằng LLVT được sinh ra làm nhiệm vụ là công cụ chuyên chính sắc bén, được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tế lịch sử cách mạng nước ta cho thấy, nếu không có LLVT tuyệt đối trung thành thì liệu đất nước Việt Nam có được như hôm nay? Từ sau chiến thắng mùa Xuân năm 1975 đến nay, dưới sự lãnh đạo sâu sát, sáng tạo và kịp thời của Đảng, LLVT ta đã đánh tan các cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ toàn vẹn biên cương của Tổ quốc, sau đó liên tiếp dẹp các vụ bạo loạn mang sắc màu chính trị do các thế lực thù địch trong nước cấu kết với bọn phản động nước ngoài thực hiện. Đó là bài học xương máu, cảnh tỉnh cho chúng ta về sự trung thành của quân đội đối với Đảng. Hay nói cách khác rằng, LLVT Việt Nam cần luôn đặt dưới sự lãnh đạo, tuân thủ đường lối quân sự và phương châm chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ Quốc do Đảng ta định hướng. Nếu thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng nghĩa với việc LLVT ta sẽ sớm hoặc muộn sẽ mất phương hướng chiến đấu, không xác định được đối tượng tác chiến, chắc chắn sẽ thất bại trên chiến trường.
Nhóm KN72 xướng danh: “…Chúng tôi, những người Việt Nam ký tên dưới đây…”, thật là một kiểu danh xưng vô thưởng vô phạt, bởi chắc chắn họ không đủ tư cách đại diên cho hơn 90 triệu người Việt Nam, vậy họ đại diện cho bao nhiêu người? Điều đó đủ thấy kẻ giấu mặt đứng sau nhóm KN72 không dám xưng gì hơn, đồng nghĩa với việc sợ đối mặt với nhân dân, những người làm chủ vận mệnh đất nước, mặt khác họ sợ đối mặt với sự thật lịch sử hào hùng của dân tộc mà họ đang rắp tâm bôi nhọ, xuyên tạc một cách trơ trẽn. Họ chính là những người với những lý do khác nhau đang bất mãn với chế độ, được các thể lực thù địch bơm thổi kích động, được bọn phản động trong và ngoài nước mua chuộc, lôi kéo, cổ suý để thực hiện chiêu bài chiến tranh không tiếng súng vốn được dàn dựng khá công phu từ lâu, hòng chống phá Đảng và Nhà nước ta, chống lại sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nhân dân ta.


Ảnh: Nhómm 15 người đại diện đã đến trao KN72 trực tiếp cho UBDTSĐHP1992 ngày 4 tháng 2 năm 2013)
Nguyễn Quang A, Phan Hồng Giang, Lê Công Giàu, Chu Hảo, Phạm Duy Hiển, Tương Lai, Phạm Chi Lan, Hồ Uy Liêm, Nguyễn Đình Lộc, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyên Ngọc, Hoàng Xuân Phú, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Trung,Tô Nhuận Vỹ

Thứ Hai, 6 tháng 7, 2020

5-7/Vạch Mặt CT Vũ Hoang Tưởng & CP Đần Minh Quao : Trò bịp Những lá thư...



(TNBĐ) -




TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2019

��LS Hoàng Duy Hùng: "Người mang bom" đi bán kẹo Hồ lô.. ???



(TNBĐ) -




TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2019

Rơi nước mắt với ca khúc "Nơi đảo xa" của Thầy và trò trường Thủy Bằng- ...




Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2019

Tầu Trung Quốc bị tầu CSB VN chửi



(TNBĐ) -




TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Đụng độ tại bãi Tư Chính

(TNBĐ) - Giới quan sát nhận định việc TQ đưa tàu khảo sát xuống gần bãi Tư Chính thể hiện là một phản ứng bị động.
Nguồn video: VN Youtuber

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2019

Hành trình về Trường Sa và nhà giàn DK1 năm 2019




Thứ Ba, 12 tháng 3, 2019

AI ĐỂ PHILIPPINES CHIẾM GIỮ MỘT SỐ ĐẢO Ở TRƯỜNG SA?


Khoai@: Đây là bài viết của nhà báo đáng kính đã khuất Thiềm Thừm - Trong làng báo Việt Nam, khó có thể tìm được người thứ 2 viết trung thực và hiểu biết cặn kẽ về vung biển Hoàng Sa, Trường Sa như anh. Xin trân trọng giới thiệu lại bài viết của anh:

Ai để Philippines chiếm giữ một số đảo ở Trường Sa?

Có lẽ vấn đề Phi Lip Pin là vấn đề nhạy cảm nhất đối với những người Hải ngoại vì đó là vấn đề mà đến tậ bây giờ họ vẫn mang ơn không thể trả được với Phi Lip Pin . Và vì thế , vấn đề Phi lip pin đã được các bạn ấy ỉm đi một cách nhanh gọn đáng ngờ .

Xem thêm :

Nhiều người Việt ở nước ngoài hay nói bọn cộng sản yếu hèn, dâng nhiều đảo ở Trường Sa cho ngoại bang. Họ nói vậy, có lẽ vì họ ghét cộng sản, vì họ không có thông tin, hoặc vì cả hai. Nhưng mới rồi có nhà báo trong nước ra vẻ hiểu biết, nói Việt Nam Cộng hòa đã giữ nhiều đảo ở Trường Sa, chả để mất đảo nào, nay mình dở quá, để mất vào tay Trung Quốc bao nhiêu đảo.

Nói với bạn ý, Trung Quốc đã chiếm 7 đảo ở Trường Sa, nhưng chưa hề chiếm được đảo nào bộ đội ta đã đóng giữ. Gạc Ma bị Trung Quốc chiếm ngày 14-3-1988, khi công binh ta mới lên cắm cờ trên đảo vài giờ.

Nhân tiện cũng nói luôn, lâu nay mọi người thường chỉ nói đến việc Trường Sa bị Trung Quốc chiếm. Nhưng sự thực, Philippines còn chiếm đóng nhiều đảo ở Trường Sa hơn cả Trung Quốc. Có một bác ở hải ngoại nhắc đến việc nhiều đảo ở Trường Sa bị Phi chiếm, đổ tội cho “bọn cầm quyền cộng sản” chả biết giữ mấy đảo đó. Bác này nói đại ý, trên mấy đảo Phi đang chiếm giữ có cả bia chủ quyền lập từ thời Việt Nam Cộng hòa, chứng tỏ cộng sản đã làm mất về tay Phi các đảo, trước kia Việt Nam Cộng hòa giữ. Lập luận đến hay!

Một số đảo ở Trường Sa bị Philippines chiếm giữ từ bao giờ, như thế nào? 

Năm 1956, sau khi tiếp thu từ Pháp quyền kiểm soát quần đảo Trường Sa, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tổ chức thị sát, dựng bia chủ quyền ở một số đảo.

Năm 1963, Hải quân Việt Nam Cộng hòa đưa ba tàu là HQ-404 Hương Giang, HQ-01 Chi Lăng và HQ-09 Kì Hoà ra xây dựng lại bia chủ quyền Việt Nam tại một số đảo thuộc Trường Sa. Sách trắng năm 1975 về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa nêu rõ ngày xây dựng lại bia chủ quyền ở 6 đảo: ngày 19-5-1963, ở đảo Trường Sa; ngày 20-5-1963, ở đảo An Bang; ngày 22-5-1963, ở đảo Thị Tứ và Loại Ta; ngày 24-5-1963 ở đảo Song Tử Đông và đảo Song Tử Tây.

Bia chủ quyền Việt Nam ở đảo Song Tử Đông

Nhưng năm 1970. Philippines đã tổ chức chiếm giữ đảo Song Tử Đông, đảo Thị Tứ, đảo Loại Ta và 4 đảo nữa. Domingo Tucay, năm 1970 là một trung úy trẻ tham gia cuộc hành quân đó kể lại, họ mang theo mật lệnh, được dặn đến tọa độ nhất định mới được mở ra. Có 7 đảo, bãi hoàn toàn hoang vắng, họ chiếm đóng dễ dàng. Chỉ khi tới đảo Song Tử Tây, họ thấy quân Việt Nam Cộng hòa đóng. “Chúng tôi báo về sở chỉ huy, được chỉ thị cứ để mặc họ”. Tucay nói.

Trong những đảo Philipines chiếm dịp đó có 6 đảo nổi, Thị Tứ là đảo lớn thứ nhì, Bến Lạc (Đảo Dừa) là đảo lớn thứ ba, Song Tử Đông là đảo lớn thứ năm ở quần đảo Trường Sa.

Theo như bài báo đăng lời Tucay kể chuyện, nhiều tháng sau khi Philippines chiếm đóng 7 đảo ở quần đảo Trường Sa, các nước khác mới biết.

Câu chuyện quân đội Philipines bí mật chiếm 7 đảo ở quần đảo Trường Sa:


Nguồn :Thiềm Thừ
(TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Tư, 2 tháng 1, 2019

(Bí ẩn)- Phút cuối cuộc đời Bác Hồ



(TNBĐ) -




TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Ba, 1 tháng 1, 2019

(TS)-10 sự kiện nổi bật 2018



(TNBĐ) -




TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2017

(NLLS- Tháng ba di tản (Trọng Đạt)

Kỳ 1: Bối cảnh lịch sử
Kỳ 2: Diễn biến cuộc di tản
Kỳ 3( kỳ cuối): Một số nhận xét của "phía bên kia"

Lời BBT: Đại thắng mùa xuân 1975 đã đem đến sự thống nhất non sông đất nước ta. Cách đây 42 năm, cuộc đại di tản của Quân lực VNCH và Đế Quốc Mỹ đã diễn ra ngay từ đầu chiến dịch giải phóng Tây Nguyên. Chúng ta hãy thử xem "phía bên kia" nới gì về cuocj đại di tản này?


Tướng TTMT Cao Văn Viên cho biết tái phối trí là cần thiết và đã có ý tưởng từ lâu nhưng không tiện nói với TT Thiệu vì sợ hiểu lầm là chủ bại (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 131, 132) và nay mới tái phối trí là quá trễ. Đúng ra phải thực hiện từ giữa năm 1974 hay khi Nixon từ chức (tháng 8-74). Ông nói cuộc di tản QĐ II bị ngăn trở bởi dòng người chạy loạn, nếu làm được cầu qua sông đúng lúc thì địch không đuổi theo kịp (trang 151, 152)

Ông Cao Văn Viên chỉ trích Tướng Phú (TL QĐ II) không chu toàn trách nhiệm, không bàn thảo với ban tham mưu (trang 152), tỉnh trưởng Phú Bổn và Phú Yên thất bại trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh lộ trình. Sự thật sai lầm do thượng cấp nhiều hơn, ông TTMT cũng nói nếu không tái phối trí sẽ không thua nhanh như vậy (trang 153).
Đại tướng Cao Văn Viên mâu thuẫn với chính ông, trong NNCVNCH trang 92 tác giả nói đạn dược chỉ đủ xử dụng trong 30 ngày (tháng 2-1975). Nhưng ông lại nói ta vẫn còn mạnh, chỉ tại di tản. Không tái phối trí ta không tan nhanh như thế, mất Ban Mê Thuột chỉ mất một phần của sư đoàn 23 BB nhưng nhưng tất cả những đơn vị khác vẫn còn nguyên vẹn, ta vẩn còn mạnh. Dù lấy được Ban Mê Thuột Cộng quân vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ trước khi mở một mặt trận mới ở QK II, ta vẫn còn Sư đoàn 22 BB (trang 134)
Tại Quân đoàn I, sự sụp đổ còn nhanh và tồi tệ hơn QĐ II. Nhiều biểu hiện tiêu cực như cấp chỉ huy bỏ chạy trước khiến cho các đơn vị như rắn không đầu đưa tới hỗn loạn, những điều tệ hại này đã được các nhân chứng kể lại
Phạm Huấn cho biết tại những địa điểm tập trung quân, vô cùng hỗn loạn, triệt thoái vội vã, không có kế hoạch, lịch trình, sự phối hợp Quân đoàn và Hải quân lỏng lẻo, cuộc lui binh cũng hỗn độn y như cuộc triệt thoái Cao nguyên, (15)
TTMT Cao Văn Viên nói
“Sự hỗn loạn, thất bại của cuộc tái phối trí ở Vùng Một xảy ra không phải vì áp lực của Cộng quân, mà vì tinh thần chiến đấu của quân ta không còn nữa” (trang 184, 185)
Tác giả lại mâu thuẫn, ông cho biết lực lượng địch tới 8 sư đoàn (trang 160), gấp hai lần VNCH, ta không thể cầm cự lâu dài được. Trong khi tại phía Bắc QK I phải rút từ Huế về Đà Nẵng, các tỉnh phía Nam Quân khu (Quảng Ngãi, Quảng Tín) đều phải hối hả rút về Đà Nẵng vì bị BV tấn công dữ dội mà ông lại nói không phải vì áp lực địch.
Tác giả Nguyễn Đức Phương (16) cho rằng Quân khu I thất thủ dễ dàng không có một lực lượng nào được tổ chức để đánh trì hoãn, có 4 nguyên nhân chính, xin sơ lược.
Lực lượng Cộng Sản tại Quân khu I trội hơn nhiều so với sự phân tán mỏng của ta. Kế họach lui binh về các cứ điểm Huế, Đà Nẵng, Chu Lai quá trễ
Ông Thiệu sai lầm trầm trọng khi cho rút Sư đoàn Dù về Vùng III quá nhanh, khiến cho dân chúng hốt hoảng đổ dồn về Đà nẵng gây ra hỗn loạn. Đã phát thanh lời kêu gọi tử thủ Huế củaTổng thống sau lại cho lệnh bỏ Huế khiến quân dân chúng hoang mang mất tin tưởng.
Nhiều sĩ quan cao cấp của Quân đoàn I mất tinh thần đào ngũ bỏ chạy, các đơn vị lần lượt tan rã, Cộng quân chiếm được đất mà không phải giao tranh.
Triệt thoái Quân đoàn II là sai lầm lớn của ông Thiệu như mọi người đã chỉ trích, cuộc lui binh đã làm thiệt mạng nhiều thường dân vô tội. Số thiệt hại của quân lính ít hơn vì họ có kinh nghiệm chiến trận, biết tránh bom đạn và có phương tiện hơn. Theo lời kể của một nhân chứng cuộc hành trình vô cùng gian nan và bi thảm. Đương sự, một cô giáo đã may mắn sống sót sau nhiều tuần lê lết trong rừng, nhiều ngàn người chết vì đói khát, kiệt sức, lạc lối…trong rừng.
Tuy nhiên không hẳn ông Thiệu là nguyên nhân cho sự sụp đổ miền Nam mà người ta khẳng định. Tướng Cao Văn Viên chỉ trích ông Thiệu, Tướng Phú… nhưng ở cương vị Tổng tham mưu trưởng ông cũng không đưa ra được kế hoạch nào cứu nguy VNCH trước tình thế nguy kịch.
Sau khi ký Hiệp định Paris, hơn nửa triệu quân Mỹ vá các nước đồng minh đã rút đi, quân đội VNCH một mình phải gánh vác toàn bộ chiến trường với quân viện bị cắt giảm xương tủy, chuyện này ai cũng biết cả. Trong trận Phước Long khi CSBV bắn đại bác thả dàn thì binh sĩ miền Nam, nhất là pháo binh phải đếm từng viên đạn (17). Trong khi BV tổng cộng có 5 quân đoàn (1, 2, 3, 4, 232) tổng cộng 15 sư đoàn và 26 trung đoàn độc lập (18), phía VNCH chỉ có 13 sư đoàn lại trải mỏng để giữ đất thì sự sụp đổ cũng không có gì khó hiểu
Tại QK I, như ta thấy khó có thể nói do ảnh hưởng của triệt thoái, ông Thiệu chỉ cho rút từ Huế vào Đà nẵng. Các đơn vị không đủ sức chống lại áp lực quá lớn và hỏa lực mạnh của địch đã phải rút chạy về Đà Nẵng, Chu lai….nhiều hơn là do cấp chỉ huy bỏ chạy hoặc do sai lầm của thượng cấp.
Lực lượng VNCH tại QK I gấp hai lần QK II (4 sư đoán chính qui, 4 liên đoàn BĐQ đã tan rã trong 10 ngày lui binh. Tại QĐ I ông Thiệu chỉ ra lệnh bỏ Huế rút về Đà Nẵng vì không đủ lực lượng và hỏa lực, tiếp liệu…không thể nói QK I sụp đổ vì di tản
Mọi người đều biết QK III không di tản và đã chiến đấu hết khả năng, giữ vững vị trí sau khi miền Trung thất thủ nhưng cũng chỉ tồn tại được một thời gian ngắn. Người ta cũng đổ cho ông Dương Văn Minh làm mất nước, đầu hàng địch. Các vị nguyên thủ Quốc gia, Tướng lãnh đã làm hết sức mình nhưng cũng không cứu vãn được tình thế
Miền Nam phải dựa vào yểm trợ của B-52, theo tác giả George Donelson Moss (19) viện trợ Mỹ cho VNCH phải từ 3 cho tới 3 tỷ rưỡi một năm mới đủ nhu cầu cuộc chiến, trên thực tế  viện trợ 1975 chỉ còn 700 triệu chưa được bằng một phần tư  nhu cầu (1/4)
Về điểm này Tướng Davidson đã công nhận CSBV được cấp nhiều xe tăng, đại bác tối tân, họ luôn mạnh hơn VNCH. Mỹ đã nâng cấp quân đội miền nam VN cho bằng BV nhưng quá trễ và quá ít “too little, too late”, nguyên văn.
“Vì thế quân đội BV luôn đi trước quân đội VNCH một bước. Việt Nam hóa chiến tranh là chuyện chạy đua (vũ trang) quá ít, quá trễ” (20)
Theo lời Tướng Tư lệnh không quân VNCH, năm 1975 thiếu nhiên liệu, máy bay không có khả năng cất cánh. Cắt giảm viện trợ đã khiến xe tăng, đại bác thiếu cơ phận thay thế, có tới 35% xe tăng, 50% thiết giáp, máy bay phải nằm ụ. (21)
Miền nam không thể chiến đấu khi cạn kiệt tiếp liệu đạn dược, sự sai lầm tái phối trí chỉ làm cho tình hình tồi tệ nhanh hơn.
Tướng Cao Văn Viên nói nếu không có tái phối trí, QK II không sụp đổ nhanh như vậy, ta còn đủ đạn dược, tiếp liệu chiến đấu cho hết mùa khô.
Ta cũng cần nhìn thẳng vào hậu quả có thể của vấn đề với giả thuyết quân đội VNCH chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Trong trường hợp này sự thiệt hại nhân mạng của của hai bên sẽ cao hơn nhiều nếu cuộc chiến kéo dài như xứ Chúa Tháp. Địch sẽ pháo kích ồ ạt vào các các thành phố lớn đông dân như Sài Gòn, Đà Nẵng, Nha Trang… và giết hại nhiều thường dân vô tội hơn
Sau khi chiếm được miền Nam chúng sẽ trả thù tàn khốc hơn, sẽ tàn sát kẻ chiến bại thẳng tay như trận Tết Mậu Thân Huế năm 1968, miền Nam sẽ phải trả giá đăt hơn nhiều. (trích trong Chiến Tranh Việt Nam Dưới Thời Kennedy-Johnson-Nixon-Ford, 2017)
Trọng Đạt


 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

(NLLS)- Tháng ba di tản (Trọng Đạt)

Tiếp theo kỳ trước

Lời BBT: Đại thắng mùa xuân 1975 đã đem đến sự thống nhất non sông đất nước ta. Cách đây 42 năm, cuộc đại di tản của Quân lực VNCH và Đế Quốc Mỹ đã diễn ra ngay từ đầu chiến dịch giải phóng Tây Nguyên. Chúng ta hãy thử xem "phía bên kia" nới gì về cuocj đại di tản này?
Diễn tiến cuộc di tản
Sau khi đã đánh thử Phước Long, thấy Mỹ chỉ phản đối xuông, Hà Nội bèn mở cuộc tổng tấn công qui mô, họ đánh chiếm Ban Mê Thuột ngày 13-3-1975 mở đầu cho sự sụp đổ của miền nam VN.
Đầu tháng 3-1975 một phái đoàn dân biểu Mỹ tới Việt Nam để nghiên cứu tình hình trước khi quyết định viện trợ thêm, đa số là phản chiến. Khoảng mười ngày sau họ về Mỹ và từ chối giúp đỡ, TT Thiệu hết hy vọng nên phải nghĩ tới kế hoạch tái phối trí lực lượng. Ngày 11-3-1975, ông họp với Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, các Tướng Cao Văn Viên,  Đặng Văn Quang tại Dinh Độc Lập và cho biết vì nay không đủ lực lượng nên cần tái phối trí. Theo ông những vùng quan trọng là QK III, QK IV, những vùng cần chiếm lại là những nơi đông dân trù phú, có giá trị về lâm sản. Tại QK II phải chiếm lại Ban Mê Thuột vì tỉnh này quan trọng, miền duyên hải QK II giữ được phần nào hay phần nấy.  Ta chỉ có thể giữ được Quân khu III, Quân Khu IV và một vài tỉnh duyên hải QK I và QK II. Quân khu I chỉ giữ Huế và Đà Nẵng (14)

Ngày 14-3-1975, TT Thiệu bay ra Cam Ranh mở phiên họp cao cấp quân sự, có mặt các ông Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Cao Văn Viên, Phạm Văn Phú (Tư lệnh QK II). (Phạm Huấn ghi lại theo lời kể của Tướng Phú trong cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975). Ông Thiệu cho biết Quốc hội Mỹ cắt quân viện, hủy bỏ những cam kết yểm trợ không lực khi bị tấn công, lãnh thổ phòng thủ quá rộng nên ta phải tái phối trí lực lượng. Tướng Phú phải rút quân bỏ Kontum Pleiku về duyên hải, qua Nha Trang sau đó sẽ hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột.
Tại Quân khu II, VNCH có 2 sư đoàn bộ binh (22, 23) và 7 liên đoàn Biệt động quân, BV có 5 sư đoàn bộ binh và 4 trung đoàn độc lập
Tướng Phú xin ở lại tử thủ nhưng ông Thiệu bác bỏ, và căn dặn phải dấu không được cho các Tỉnh trưởng, Quận trưởng biết, họ phải ở lại chiến đấu. Về buổi họp này Tướng BV Văn Tiến Dũng ghi lời khai của Chuẩn tướng Phạm Duy Tất cũng gần giống như vậy, ông Cao Văn Viên ghi lại chi tiết buổi họp cũng gần giống như lời Phạm Huấn.
Tướng Cao Văn Viên cho biết quốc lộ 21 về Nha Trang không đi được vì đường 14 từ Pleiku tới Ban Mê Thuột đã bị BV cắt, đường 19 nối Pleiku với Qui nhơn bị Cộng quân đóng chốt nhiều nơi, đèo An Khê bị cắt ở hai phía đông tây, chỉ con đường số 7B. Con đường này tuy tạo được yếu tố bất ngờ nhưng bị bỏ hoang cầu cống hư hỏng.
Kế hoạch được giữ bí mật, Liên đoàn 20 công binh chiến đấu mở đường, thiết giáp đi theo các đoàn xe để bảo vệ, hai liên đoàn Biệt động quân và thiết giáp đi bọc hậu đoàn quân di tản.
Ngày 16-3-1975 đoàn xe bắt đầu rời Pleiku gồm các đơn vị quân cụ, đạn dược, pháo binh, khoảng 200 xe. Tướng Phú và bộ tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, Chuẩn tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc cuộc di tản. Mỗi ngày một đoàn xe khoảng 200 hay 250 chiếc, ngày đầu êm xuôi vì bất ngờ. Điều xui xẻo là đường rút lui lại gần vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 BV tại Buôn Hô, Ban Mê Thuột, chúng đuổi theo ngày 16-3, (ngày 18 đã bắt kịp)
Ngày hôm sau 17-3 Các đơn vị pháo binh còn lại, công binh, quân y, tổng cộng chừng 250 xe. Khi ấy dân chúng chạy ùa theo làm náo loạn
Ngày 18-3 Bộ chỉ huy Quân đoàn về tới Hậu Bổn, Phú Bổn, Việt Cộng đuổi theo pháo kích dữ dội gây thiệt hại hầu hết chiến xa và trọng pháo tại đây. Địch pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn di tản. Lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú bổn bị thiệt hại nặng tới 70%.
Chặng đường cuối cùng về Tuy Hòa rất cam go vì có nhiều chốt VC, trời mưa lạnh, địch pháo kích đoàn di tản để cầm chân ta. Ngày 27-3 sau khi thanh toán chốt cuối cùng đoàn di tản về tới Tuy Hòa buổi tối tổng cộng 300 xe (trong số 1,200 xe) mở đường máu về được Tuy Hòa
Theo lời kể Đại tá Phạm Bá Hoa khi ta rút khỏi Pleiku và Kontum 4 ngày (kể từ 16-3) CSBV mới tiến quân vào hai tỉnh lỵ này, chúng còn đóng ở xa. (PBH: Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7B). Theo The World Almanac Of The Viet Nam War trong số khoảng 400,000 người dân Cao nguyên chạy loạn chỉ có chừng một phần tư tới Tuy Hòa. Tướng Hoàng Lạc nói trong số khoảng 200,000 dân chạy loạn chỉ có 45,000 tới Tuy Hòa. 60,000 chủ lực quân chỉ có 20,000 tới được Tuy Hòa. Lữ đoàn 2 Thiết Kỵ với trên 100 xe tăng nay chỉ còn 13 chiếc M-113. Tướng Cao Văn Viên nói ít nhất 75% lực lượng, khả năng tác chiến của Quân đoàn II gồm Sư đoàn 23 BB, BĐQ, Thiết giáp, Pháo binh, Công binh… bị hủy hoại trong vòng 10 ngày. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột không thể thực hiện được vì không còn quân.
Tại Quân khu I, VNCH có ba sư đoàn cơ hữu 1, 2, 3 và hai sư đoàn tổng trừ bị  (Dù, TQLC) và 4 liên đoàn Biệt động quân nhưng ông Thiệu lại cho rút sư đoàn Dù về Trung ương
Ngày 14/3 sau khi họp với TT Thiệu Tướng Trưởng từ Sài Gòn về Quân đoàn I họp tham mưu, thảo luận kế hoạch tái phối trí
Ngày 17/3 Lữ đoàn 258 TQLC sẽ rời Quảng Trị để về Đà Nẵng thay lữ đoàn 2 Dù. Dân chúng sợ hãi đã di tản ồ ạt trên Quốc lộ 1 gây cản trở.
Ngày 18/3 Thủ tướng Trần Thiện Khiêm ra Đà Nẵng để giải quyết vấn đề dân tỵ nạn, ông cho Tướng Trưởng biết sẽ không có quân tăng viện Quân khu I
Ngày 19/3 Tướng Trưởng được triệu về Sài Gòn họp lần thứ hai để trình bầy hai kế hoạch lui binh:
Kế hoạch Một: các đơn vị sẽ theo Quốc lộ I từ Huế, Chu lai về Đà Nẵng, trong trường hợp Quốc lộ I bị cắt thì sẽ theo kế hoạch Hai.
Kế hoạch Hai: Các lực lượng Quân đoàn sẽ tập trung tại ba cứ điểm Huế, Đà Nẵng và Chu Lai, tầu Hải quân sẽ chuyên chở lính từ Huế Chu Lai về Đà nẵng. Đà Nẵng là điểm phòng thủ chánh. Tướng Trưởng đề nghị giữ cả ba cứ điểm để phân tán lực lượng và gây tổn thất tối đa cho địch, ông Thiệu cho biết giữ được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Ngày 19/3 Quảng Trị bỏ ngỏ, chi đoàn Thiết giáp, Liên đoàn 14 BĐQ rút về bên này Mỹ chánh lập phòng tuyến mới.
Sáng 20/3 Tướng Trưởng bay ra bộ chỉ huy tiền phương họp các cấp chỉ huy bàn kế hoạch phòng thủ Huế như Tổng thống ra lệnh phải giữ bằng mọi giá.
Đến chiều khi về tới Đà Nẵng, Tướng Trưởng nhận được lệnh của của dinh Độc Lập chỉ giữ Đà Nẵng thôi nếu tình hình bó buộc, vì không đủ sức để bảo vệ cả ba cứ điểm Chu lai, Huế và Đà Nẵng.
Quân khu I ngày một nguy ngập, Cộng quân đã bắt đấu tấn công mạnh theo thế gọng kìm từ trên Quảng Trị đánh xuống và từ dưới Quảng Ngãi đánh lên. Tại Huế, Trung đoàn 1 BB (SĐ1) và Liên đoàn 15 Biệt động quân bị đẩy lui, Tướng Trưởng ra lệnh thu gọn tuyến phòng thủ Huế.
Dân chúng và quân cụ bắt đầu được chở bằng tầu ra khỏi Đà Nẵng. Sáng ngày 24/3 tại phía Nam Quân khu I, BV tấn công mạnh tại Quảng Tín, Trung đoàn 52 BV và xe tăng đánh Tam Kỳ, đặc công đột nhập tỉnh lỵ thả tù gây rối loạn đến trưa thì Tam Kỳ thất thủ. Dân ùn ùn chạy về Đà Nẵng. Quảng Ngãi bị Cộng quân tấn công dữ dội,
Ngày 25/3 tất cả các đơn vị Quân đoàn I tụ lại 3 phòng tuyến chính: Nam Chu Lai, Đà Nẵng và Bắc Huế, các lực lượng của Quân đoàn I bị thiệt hại nhiều khi di tản về các phòng tuyến này. Một nửa Sư đoàn 2 đã lên tầu đưa về Bình Tuy, chính phủ tuyên bố Huế và Chu lai thất thủ ngày 25/3.
Huế bắt đầu di tản, Sư đoàn I và các đơn vị cơ hữu rút ra cửa Tư Hiền. Sư đoàn TQLC và các đơn vị trực thuộc sẽ triệt thoái bằng tầu Hải quân. Cộng quân đuổi theo nã pháo vào cửa Tư Hiền và các địa điểm tập trung gây nhiều thiệt hại. Hỗn loạn diễn ra không còn quân kỷ, Sư đoàn I tan rã tại đây chỉ có một phần ba về được đến Đà nẵng, tới nơi họ rã ngũ đi tìm thân nhân.
Trong khi đó Lữ đoàn kỵ binh với hơn 100 thiết giáp các loại từ mặt trận Bắc Huế tiến về cửa Thuận An, theo sau là các đơn vị pháo binh với hằng trăm khẩu pháo. TQLC, BĐQ, ĐPQ từ tuyến sông Bồ đang lũ lượt kéo về, hỗn loạn lại diễn ra. Hai tầu dương vận hạm đến cửa Thuận An để chở TQLC, tầu hải vận đĩnh và quân vận đĩnh chở người từ bờ ra dương vận hạm.
Các Sư đoàn Cộng quân tấn công bao vây Đà Nẵng, VNCH lập tuyến phòng thủ nhưng ngày 27/3/1975 bị vô hiệu trước sự hỗn loạn. Tại đây Quân đoàn I chỉ còn có Sư đoàn 3 và 2 lữ đoàn TQLC, các Sư đoàn 1 và 2 đã bị rã ngũ, một phần đã được tầu chở ra khơi. Lực lượng không đủ đương đầu với áp lực quá đông của địch.
Sáng ngày 28/3/1975 Tướng Trưởng họp khẩn cấp các đơn vị trưởng ban hành một số biện pháp vãn hồi trật tự và tái trang bị các đơn vị di tản trong thành phố nhưng không còn đủ quân tác chiến. Hai giờ trưa các xã ấp quanh Đà Nẵng đã bị địch chiếm.
CSBV pháo phi trường, căn cứ Hải quân rất dữ dội và chính xác. Liên lạc giữa Sài Gòn và Đà Nẵng bị cắt đứt, Tướng Trưởng lập tức ra lệnh bỏ Đà Nẵng, ông họp với Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư lệnh Hải quân vùng I và các cấp chỉ huy để hẹn địa điểm rút quân tại : chân đèo Hải Vân, núi Non Nước và cửa khẩu Hội An.
Rạng sáng ngày 29/3/1975 binh sĩ lội ra biển. Cuộc di tản êm xuôi cho đến khi khi địch phát hiện, pháo kích vào địa điểm tập trung quân và tầu ngoài khơi gây nhiều thiệt hại. Đoàn tầu di tản được khoảng 6,000 TQLC, 3,000 lính Sư đoàn 3 và nhiều đơn vị khác.
Đà Nẵng thất thủ ngày 29/3/1975, có tài liệu cho biết VNCH mất 130 máy bay tại Đà Nẵng, năm 1976 Tướng Trưởng cho biết khoảng 6,000 TQLC, và 4,000 quân thuộc các binh chủng khác đã được tầu bè cứu thoát. Tổng cộng có 70,000 người dân được cứu thoát và 16 ngàn lính. Bốn sư đoàn kể cả TQLC đã bị thiệt hại nặng nề.
Kỳ sau: Một số nhận xét của "phía bên kia"

 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Loading...