TIN NÓNG HOÀNG SA-TRƯỜNG SA, BIỂN ĐÔNG (VIỆT NAM)

Thứ Ba, 19 tháng 7, 2016

Trơ trẽn như Giặc Tầu

(TNBĐ) - Cuối cùng thì một phán quyết lịch sử đã diễn ra tại La Haye (Hà Lan). Sau ba năm bảy tháng, “Chú lính chì dũng cảm” Manila có đơn kiện lên Tòa trọng tài LHQ (PCA) về việc Bắc Kinh ngang ngược vung bút vẽ ra cái “Đường lưỡi bò” trên Biển Đông, có vẻ như đã đưa tới một kết thúc có hậu.

Phán quyết của PCA được dư luận quốc tế dự báo từ trước. Rằng, lẽ phải sẽ thắng. Pháp luật quốc tế sẽ thắng. Cho nên sau khi Tòa công bố phán quyết cuối cùng thì lập tức Mỹ, Philippines, Việt Nam, Nhật Bản và nhiều quốc gia khác lên tiếng mạnh mẽ, ủng hộ.Sao lại không ủng hộ khi PCA đã xem xét toàn bộ vụ kiện một cách khách khoan, toàn diện, tuân thủ luật pháp quốc tế? Việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông phải bằng các biện pháp hòa bình, bao gồm các tiến trình ngoại giao và pháp lý, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực theo quy định của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982.

Nhưng có một quốc gia lớn – bên bị kiện- thì phản ứng dữ dội. Người ta cũng không còn lạ gì thái độ trơ trẽn, tráo trở của kẻ vừa ăn cướp vừa la làng. Trước đó, Bắc Kinh lớn tiếng, không tham gia vụ kiện, vì PCA vi phạm luật pháp quốc tế. Và Bắc Kinh sẽ không chấp nhận một kết luận nào từ phía Tòa quốc tế. Thế nhưng các nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn tìm cách ve vãn Tân tổng thống Philippines Rodrigo Duterte. Rằng, các ông hãy ngồi lại đàm phán song phương với tôi đi. Chúng ta sẽ tìm ra những điểm tương đồng, cùng làm ăn khai thác trên Biển Đông. Chớ có dại để Mỹ chĩa mũi vào. Chính Mỹ mới là kẻ làm nóng lên “thùng thuốc súng” trên biển.

Hòa hoãn không xong. Cái gì đến phải đến. Ngay trong buổi chiều ngột ngạt 12-7 và đêm ấy, những chén rượu Mao Đài đắng ngắt trong cổ họng nhà cầm quyền Bắc Kinh. Và họ lập tức lên tiếng. Từ Ông Chủ tịch Tập Cận Bình đến Ngoại trưởng Vương Nghị, người phát ngôn Bộ Quốc phòng Dương Vũ Quân nhất hô bá ứng. Rằng, phán quyết của Tòa trọng tài“là vô giá trị, không có sức ràng buộc, Trung Quốc không chấp nhận, không công nhận”. Và rằng, mục đích của Philippines đơn phương đưa vấn đề lên trọng tài là “không phải là để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc, cũng không phải để giữ gìn hoà bình và ổn định” trên Biển Đông, mà hòng phủ định yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông. Trước sau hành động đưa lên trọng tài của Philippines là vi phạm luật pháp quốc tế! Hổ giấy Bắc Kinh cũng tố ngược: Hành động và phán quyết của Toà trọng tài đã trái thực tiễn thông thường của Toà trọng tài quốc tế, trái ngược hoàn toàn với mục đích và tôn chỉ thúc đẩy giải quyết hoà bình tranh chấp của Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển, làm tổn hại nghiêm trọng tính hoàn chỉnh và uy tín của Công ước, xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi hợp pháp của Trung Quốc.

Là cái loa của các quan thầy, Tân Hoa Xã và nhiều tờ báo lớn ở Trung quốc đồng loạt xuyên tạc tình hình, bình luận dối trá về sự kiện này. Trung Quốc cũng không ngần ngại chỉ trích một số nước đã không đi tới tận cùng với mình, như Singapore, Indonesia mà chỉ là những kẻ theo đóm ăn tàn, hít phải bã mía của Mỹ (!) Ngoài Biển Đông hàng loạt các hoạt động khiêu khích quân sự, cho máy bay quần thảo trên biển để giễu võ giương oai và cũng là để cho đỡ… bẽ mặt. Cũng ngày từ hôm 13-7, người Trung Quốc đã có những hoạt động tảy chay không mua hàng hóa của Philippines trên mạng. Thật là trò trẻ con, nhăng nhố.

Trong khi Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon kêu gọi Trung Quốc và các bên chấp hành nghiêm phán quyết của Tòa giải quyết tranh chấp tại Biển Đông một cách hòa bình và hòa giải thông qua đối thoại, tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Hiến chương LHQ; không thực hiện các hành động gia tăng thêm căng thẳng, thì thái độ mũ ni che tai của “bên thua cuộc” là không thể chấp nhạn được.

Cách chúng ta hơn 2000 năm, đời nhà Hán ở Trung Quốc đã có câu rằng: “Một chó sủa hình, trăm chó sủa tiếng”. Nghĩa là, vào một đêm trăng mờ nào đó, có con chó phát hiện bóng người và bèn sủa hình. Tức thì hàng trăm con sau sủa theo tiếng của con trước.

Cái giàn sủa tiếng ở Bắc Kinh đang cất giọng.



 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – Nguyên nhân và giải pháp (Phần 2)

PHẦN 2
Cho đến ngày 6 tháng 5 năm 1921, có nghĩa sau hơn 1 tháng ngày 30-3-1921, lệnh mang số 831 của Ban Đốc chính chính quyền quân sự miền Nam Trung Hoa sau phiên họp ngày 11-3-1921 đã quyết định sáp nhập về mặt hành chính các đảo Hoàng Sa vào huyện Yai Hien (Châu Nhai, đảo Hải Nam), Vụ Các vấn đề chính trị và Bản xứ thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương đã có văn bản ghi chú (Note) ghi rất nhiều điều liên quan đến quần đảo Hoàng Sa lấy từ Hồ sơ hiện có ở Phủ Toàn quyền Đông Dương, cho biết đã tìm trong kho tư liệu của hải quân Sài Gòn, lưu trữ của Thống đốc Nam kỳ, của Phủ Toàn quyền không thấy có tư liệu nào có tính chất làm rõ quốc tịch của các đảo Hoàng Sa. Chính lúc Toàn quyền Đông Dương ra chỉ thị điều tra về vấn đề quốc tịch của Hoàng Sa cũng là lúc nhận được bức thư của Tổng Lãnh sự Beauvais ở Quảng Châu báo tin có sự kiện chính quyền quân sự Nam Trung Hoa quyết định sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Đông.
Rõ ràng sự kiện Chính quyền quân sự miền Nam Trung Hoa ra tuyên bố sáp nhập Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam vào huyện Châu Nhai, đảo Hải Nam thuộc tỉnh Quảng Đông ngày 30 tháng 1 năm 1921 cũng đã xảy ra vào thời Pháp thuộc, khi Việt Nam đã hoàn toàn mất chủ quyền.

Khi còn mơ hồ về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Ḥoàng Sa, trong khi ấy thực chất quyền lực nhà nước là do chính quyền thực dân Pháp nắm, nên chính quyền thực dân Pháp không tích cực ngăn chặn sự vi phạm chủ quyền của chính quyền Quảng Đông tại quần đảo Hoàng Sa là chuyện đương nhiên. Chắc chắn khi Việt Nam vẫn còn chủ quyền, được độc lập tự chủ hay Hoàng Sa vốn thuộc chủ quyền của Pháp thì chính quyền nào cũng phải lấy nhiệm vụ tối thượng là bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của nước mình. Vì thế chung quy không có sự ngăn chặn kịp thời sự xâm phạm chủ quyền của chính quyền quân sự miền Nam Trung Hoa vào năm 1921 cũng như của chính quyền Quảng Đông năm 1909 chính là do Việt Nam bị Pháp đô hộ, không c̣òn chủ quyền để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Vậy về phía Việt Nam nguyên nhân sâu xa hay khách quan dẫn đến sự tranh chấp không đáng có chính là Việt Nam bị Pháp đô hộ, mất hết chủ quyền để có thể bảo vệ lãnh thổ của mình khi bị xâm phạm.
Về phía Trung Hoa, nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn quần đảo Paracels gần Hải Nam để tránh xảy ra sự kiện bất cứ nước nào nhất là các cường quốc hồi bấy giờ phỗng tay trên, chiếm cứ những đảo ở Nam Hải mà Trung Hoa coi là vô chủ.
Về phía chính quyền thực dân Pháp, nguyên nhân chủ quan chính là do quyền lợi riêng của chính quyền thực dân Pháp đã khiến Pháp không phản ứng kịp thời để Trung Hoa cho là đất vô chủ và đi sâu vào hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và sự thiếu hiểu biết do hạn chế của người đi đô hộ, không hiểu quan điểm của Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Song sau đó, Chính quyền thực dân Pháp đã bắt đầu quan tâm đến hành động trái phép của chính quyền Quảng Đông với quần đảo Hoàng Sa. Nguyên nhân nào khiến Chính quyền thực dân Pháp bắt đầu quan tâm đến việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa trong thời gian từ năm 1921 đến 1930?
Đó chính là do tầm quan trọng của vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa đối với an toàn quyền lực của chính quyền thực dân Pháp và do sự hiểu biết lập trường của Việt Nam (theo Thượng thư Bộ Binh Thân Trọng Huề giải thích).
Trước hết chính vì vị trí chiến lược quan trọng của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như Biển Đông đối với lãnh thổ Pháp đang cai trị, nên thực dân Pháp ở Đông Dương phải cân nhắc lợi hại, đã quyết định đối mặt với những ý đồ tranh chấp chủ quyền của các nước khác trong đó có Trung Quốc.
Lúc ban đầu, trong bản báo cáo ngày 04 tháng 5 năm 1909, Tổng Lãnh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu đã đề cập tới tầm quan trọng vị trí của quần đảo Hoàng Sa, song lại chưa sát sườn với lợi ích của chính quyền thực dân, dù có hệ trong đến hàng hải hay sự đe dọa đối với ngư dân Việt nam như sau:
Về vấn đề này, nhân viên của chúng tôi nhận xét rằng các đảo Hoàng Sa đối với chúng ta có một tầm quan trọng nhất định: vì nằm giữa tuyến đường đi từ Sài Gòn đến Hồng Kông, các đảo đó là một mối nguy hiểm lớn đối với hàng hải và việc chiếu sáng ở đó có thể là cần thiết. Ngoài ra, các đảo đó thường có ngư dân An Nam và Trung Quốc qua lại: họ đến đó trong quá trình đánh cá để sơ chế sản phẩm. Đã xảy ra những cuộc đổ máu giữa ngư dân hai nước trong dịp đó”. [Cf. Monique Chemillier - GendreauLa Souveraineté sur les Archipels Paracels et SpratleysL’Harmattan, 1996, p.197].
Trong văn thư của Khâm sứ Trung Kỳ Le Fol gửi Toàn Quyền Đông Dương vào ngày 22-1-1929 đã nhấn mạnh về vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa:
Trong tình hình hiện nay, không ai có quyền phủ nhận tầm quan trọng chiến lược rất lớn của các đảo Hoàng Sa. Trong trường hợp có xung đột, việc nước ngoài chiếm đóng chúng sẽ là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất có thể có đối với việc phòng thủ và sự toàn vẹn lãnh thổ của Liên bang [Đông Dương].
Thực vậy, các đảo nói trên là sự kéo dài tự nhiên của Hải Nam. Đối phương có thể lập ở đó một căn cứ hải quân hùng mạnh nhờ những vụng và nhiều nơi đậu tàu tuyệt vời. Một đội tàu ngầm dựa vào căn cứ đó sẽ có thể, không những phong tỏa cảng Đà Nẵng là cảng quan trọng nhất của Trung Kỳ, mà còn cô lập Bắc Kỳ bằng cách ngăn cản việc đi đến Bắc Kỳ bằng đường biển. Lúc đó để liên lạc giữa giữa Nam Kỳ với Bắc Kỳ ta phải dùng đường sắt hiện có, một con đường rất dễ bị đánh vì chạy dọc theo bờ biển, pháo hải quân đặt trên các chiến hạm có thể mặc sức phá hủy“.
Đồng thời, mọi con đường thông thương giữa Đông Dương – Viễn Đông – Thái Bình Dương sẽ bị cắt đứt: hải lộ Sài G̣òn – Hồng Kông đi gần quần đảo Paracels, do đó nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của căn cứ trên các đảo”. [Cf. Monique Chemillier - GendreauLa Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, L’Harmattan, 1996, p.174].
Mặc dù có những báo cáo rất rõ về tầm quan trọng của Hoàng Sa đối với việc bảo vệ lãnh thổ thuộc địa Đông Dương của Pháp, song phải có sức ép của dư luận báo chí của người Pháp ở Đông Dương thì chính quyền thực dân Pháp mới có những hành động cụ thể để bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa của nước được Pháp bảo hộ.
Đầu tiên, với loạt bài trong các số 606, 622, 623, 627 (tháng 1, 5, 6 năm 1929), nhà báo Henri Cucherousset đã lược qua về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa với những dẫn chứng hết sức cụ thể như:
1/ Jean Baptiste Chaigneau viết năm 1820 dưới nhan đề: Notice sur la Cochinchine cho biết năm 1816 vua Gia Long đã thực sự chiếm đảo Hoàng Sa.
2/ Giám mục Jean Louis Taberd viết trong Journal of the Asiatic Society of Bengal, Tập VI, năm 1837, tr.737 và những trang kế tiếp; Tập VII, năm 1838, tr.317 và những trang kế tiếp đề cập đến quần đảo Hoàng Sa trong mục “Géographie de la Cochinchine”.
3/ Dubois de Jaucigny viết trong L’Univers – Histoire et Description de tous les peuples de leurs religions. Moeurs, coutumes; Japon, Indochine, Ceylan xuất bản năm 1850 tại Paris, F. Didot xuất bản, có đoạn viết: “… từ 34 năm về trước quần đảo Hoàng Sa (mà người An nam gọi là Cát Vàng đã được chiếm cứ bởi các người xứ Nam Kỳ”. Cucherousset còn viết những chi tiết về quần đảo Hoàng Sa trong Nam Việt địa dư [Hoàng Việt địa dư?], Minh Mạng năm thứ 14; Đại Nam nhất thống chí, in thời Duy Tân, Tập 6, tờ 18b, 19a cùng việc tàu De Lanessan thám sát Hoàng Sa năm 1925.
Theo tác giả, quần đảo Hoàng Sa quan trọng do 5 đặc tính sau đây:
1/ Là trạm cho thủy phi cơ tuyến Sài Gòn – Hồng Kông, Tourane – Philippines.
2/ Là điểm tựa chiến lược cho tàu ngầm khi có chiến tranh.
3/ Là trạm thông báo khí tượng.
4/ Là nơi tranh gió bão cho tàu đánh cá.
5/ Giàu quặng phốt phát.
Lý do tác giả viết loạt bài đó là vì một Đại úy người Anh muốn nhân danh Anh Hoàng đặt chủ quyền Anh lên đảo Sein, đồng thời tác giả cực lực phản đối việc hải quân Trung tá Rémy ở Sài G̣òn trả lời cho một công ty hàng hải Nhật rằng không biết quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của ai, và việc ông Monguillot đã viết cho ông Gravereaud nói rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa.
Theo tác giả, Chính quyền bảo hộ Pháp phải xác định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa bằng các hành động:
a/ Vẽ bản đồ tổng quát Hoàng Sa tỉ lệ 1/200.000, vẽ bản đồ chi tiết 1/25.000, vẽ bản đồ hải quân và bản đồ địa chất.
b/ Đặt đài hải đăng.
c/ Đặt trạm quan sát và thông báo khí tượng.
4/ Lập đội trú phòng trú đóng tại Hoàng Sa.
Tác giả còn trách cứ Chính quyền Pháp đã quá lơ là trong việc xác nhận và bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa.
Sau đó, chính bức thư của Toàn quyền Pasquier gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa ngày 18-10-1930 đã làm chấm dứt thái độ do dự của Chính quyền Pháp đối với hành động xâm phạm trái phép của Chính quyền Trung Hoa đối với chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Trong bức thư trên, Toàn quyền Pasquier đã gửi tập tư liệu về quần đảo Hoàng Sa bao gồm:
1. Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Đại Nam nhất thống chí, Quyển 6 hay Biên niên sử của chính phủ An Nam.
2. Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Nam Việt địa dư, Tập 2 hay Địa dư thời Minh Mạng [Chú thêm của tác giả: tức Hoàng Việt địa dư chí].
3. Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Đại Nam nhất thống chí hay Địa dư thời Duy Tân.
Kèm theo là bốn thư phụ lục và bốn bản đồ. Toàn Quyền Pasquier viết: “Chắc hẳn Ngài cũng đánh giá như tôi rằng chúng ta đã đủ để xác định không thể tranh cãi rằng An Nam đã thực sự nắm sở hữu quần đảo và làm như vậy trước năm 1909 nhiều.” [Cf. Monique Chemillier - Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, L’Harmattan, 1996, p.233].
HẾT PHẦN 2


 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – Nguyên nhân và giải pháp


BBT: Nhận thấy đây là bài viết hay của tiến sỹ Hàn Nguyên Nguyễn Nhã về lịch sử Hoàng Sa, ban biên tập xin đăng toàn văn bài viết này góp lên tiếng nói chủ quyền của VN về Hoàng Sa- Trường Sa.
PHẦN 1
== Lời dẫn: Sự thực lịch sử về chủ quyền và những hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự tranh chấp cùng nguyên nhân xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đã quá rõ ràng, nên giải pháp phải là “cái gì của César phải trả lại cho César”. Bất kỳ chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào, dù khác chính kiến, đều coi trọng việc lấy lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. Lịch sử đã chứng minh dù có hàng ngàn năm bị lệ thuộc rồi cũng có ngày với sự kiên cường, bất khuất, cuộc đấu tranh sẽ thành công. - Hàn Nguyên Nguyễn Nhã
A- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC CHÍNH QUYỀN TỈNH QUẢNG ĐÔNG (TRUNG HOA) KHẢO SÁT TRÁI PHÉP QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀO NĂM 1909 VÀ TIẾP TỤC XÂM PHẠM CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM Ở HOÀNG SA CHO ĐẾN NĂM 1930
Việt Nam bị Pháp xâm lược năm 1858, mất hết chủ quyền tự chủ ngoại giao theo Hiệp ước cuối cùng ký với Pháp năm 1884, nên đã không bảo vệ được chủ quyền của mình tại Hoàng Sa khi bị các nước khác xâm phạm.
Trong thời Pháp thuộc, vào tháng 6/1909, chính quyền Quảng Đông (Trung Hoa) do Tổng Đốc Trương Nhân Tuấn đứng đầu, vào tháng 6 năm 1909 như báo chí Quảng Châu hồi bấy giờ đưa tin, lần đầu tiên đă cử một hạm đội nhỏ của nhà Thanh đã đi khảo sát trái phép quần đảo Paracels, vốn của Việt Nam từ lâu, tên chữ là Hoàng Sa hay tên nôm gọi là Cát Vàng hay Cồn Vàng.
Tên Tây Sa là tên do chính quyền Quảng Đông đặt ra sau sự kiện tháng 10/1907, khi chính quyền Nhà Thanh đuổi được nhóm thương gia người Nhật Nishizawa Yoshiksugu chiếm giữ đảo Pratas trong 3 tháng (từ 2-7-1907). Cũng bắt đầu từ đó, chính quyền Quảng Đông đặt tên Pratas là Đông Sa, vốn là tên một đảo ở ngoài khơi tỉnh Quảng Đông, đã được ghi rất rõ trên bản đồ “Duyên hải toàn đồ” trong sách Hải quốc văn kiến lục của Trần Luân Quýnh (1730).
Không phải chính quyền thực dân Pháp không biết sự kiện khảo sát trái phép này. Chính bức thư của Lãnh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu gửi Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Pháp ngày 4-5-1909 đã nêu rõ ý đồ của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam khi viết: “Như tôi đã trình bày với ông khi kết thúc bản báo cáo gần đây của tôi (số 86 ngày 1-5-1909) về vấn đề các đảo Đông Sa (Pratas), vấn đề này khiến Chính phủ Trung Hoa chú ý đến các nhóm đảo khác nằm dọc bờ biển của Thiên triều và tới một mức độ nhất định có thể được coi như một bộ phận của Thiên triều, trong đó có quần đảo Paracels“. [Monique, Chemillier - Gendreau, La souveraineté sur les archipels Paracels et SpratleysParis, L’Harmattan, 1996, p.206].
Cũng cần lưu ý, bức thư trên được viết khi chính quyền Quảng Châu đang chuẩn bị thực hiện chuyến khảo sát. Cuộc khảo sát diễn ra sau đó, có mặt cả người Đức. Đoàn khảo sát rời Hồng Kông vào ngày 21-5-1909 và về Quảng Châu vào ngày 9-6-1909.
Cũng trong thư trên đề ngày 4 tháng 5 năm 1909, Lãnh sự Pháp ở Quảng Châu gửi cho Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Pháp có một số nội dung đáng lưu ý sau đây:
- Do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn quần đảo Paracels gần Hải Nam.
- Cuộc khảo sát trái phép đầu tiên là của Ngô Kính Vinh đã cho thấy ở mỗi đảo Hoàng Sa đều có một ngôi miếu nhỏ xây kiểu nhà đá (tất cả tường mái là đá san hô và vỏ sò). [MoniqueChemillier - Gendreau, sđd, Paris, L’Harmattan, 1996, p.207]
- Các ngư dân Việt Nam mang cả vợ con đến sống ở Hoàng Sa, bị đối xử tàn tệ, vợ con bị bắt đến Hải Nam. [Monique,Chemillier-Gendreau, sđd, Paris, L’Harmattan, 1996, p. 210]
Như thế Chính phủ Pháp ngay tại chính quốc đã rõ ý đồ của chính quyền Trung Hoa (dù chỉ là chính quyền địa phương) xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại Paracels (Hoàng Sa). Sở dĩ chính quyền Pháp không ngăn chặn hành động khảo sát trên vì nhiều lý do:
Một là khi ấy, Pháp chưa quan tâm đến vấn đề bảo vệ sở hữu quần đảo của nước “An Nam” mà Pháp bảo hộ theo Hiệp ước Patenôtre 1884. Vấn đề ngăn chặn ý đồ của Trung Hoa ngay từ năm 1909 mà Lãnh sự Pháp ở Quảng Châu là Beauvais đã báo cáo, bị chính quyền Pháp ở mẫu quốc bỏ qua.
Điều này cũng dễ hiểu, nếu như các đảo ấy vốn thuộc sở hữu của nước Pháp hoặc thuộc đất Nam Kỳ, nhượng địa hay thuộc địa chứ không phải đất bảo hộ, thì chắc chắn Chính phủ Pháp sẽ có hành động ngăn chặn ngay và sẽ không thể xảy ra tranh chấp lâu dài về sau. Nếu không, Chính phủ Pháp sẽ bị kết tội hay sẽ bị lên án do chính người Pháp hoặc giới chính trị hoặc những công dân yêu nước của Pháp.
Hai là chính quyền thực dân Pháp ngại sự ngăn chặn có thể làm phát sinh trong ḷòng dân chúng Trung Hoa một phong trào “sô vanh” có hại cho quyền lợi Pháp ở Trung Quốc.
Điều này cũng đã được Ông Beauvais nêu ra trong chính văn thư báo cáo ngày 4-5-1909 gửi Ông Bộ trưởng Ngoại giao Pháp và đã được Chính phủ Pháp cân nhắc làm theo :
Như vậy, thưa Ông Bộ trưởng, nếu ta còn lợi ích trong việc ngăn không cho Chính phủ Trung Hoa nắm lấy nhóm các đá ngầm này, có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng nghiên cứu, tìm ra các lập luận chứng minh rõ ràng quyền của chúng ta và những bằng chứng không thể bác bỏ về quyền đó. Nhưng nếu việc đó không đáng làm, sau khi đã suy nghĩ chín chắn, có lẽ nên nhắm mắt làm ngơ. Một cuộc can thiệp của chúng ta sẽ có khả năng làm xuất hiện một phong trào sô vanh mới làm cho chúng ta bị thiệt hại nhiều hơn lợi ích mà việc sở hữu được thừa nhận đối với quần đảo Hoàng Sa đem lại ” (Monique Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, L’Harmattan, 1996, p.211-212).
Trong văn thư đề ngày 14 Janvier 1921 của Ông Chủ tịch Hội đồng Pháp quốc (tức Thủ tướng) kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Pháp gửi Bộ trưởng Bộ Hải quân Pháp cũng đã khẳng định Bộ Ngoại giao Pháp đã nghe theo ý kiến của Beauvais (Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 205).
Ba là các quan chức thực dân Pháp từ Phủ Toàn quyền đến Bộ Thuộc địa hay Bộ Ngoại giao Pháp không biết rõ hoặc rất mơ hồ về sở hữu từ lâu thuộc về Việt Nam.
Có rất nhiều bằng chứng như chính Ông Beauvais trong bản báo cáo trên cũng không chắc chắn mà chỉ nói : “có lẽ sẽ dễ dàng nghiên cứu…”.
Hết phần 1

 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Loading...