Tháng 6-1938, một đơn vị lính Bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú tại quần đảo Hoàng Sa. Một bia chủ quyền đã được dựng tại đảo Hoàng Sa có khắc dòng chữ: “Republique Francaise-Empire d’Annam-Achipel de Paracel 1816-Ile de Pattle 1938”. |
Về
tính liên tục của sự chiếm hữu thực sự, Tiến sĩ Trần Công Trục đưa ra một số
mốc lịch sử hết sức cụ thể, có ý nghĩa: Với tư cách là đại diện Nhà nước Việt
Nam về đối ngoại trong thời kỳ Việt Nam là thuộc địa của Pháp, Cộng hòa Pháp đã
tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
LTS:
Trung Quốc đang cố làm những điều sai trái. Sai trái chồng sai trái khi họ cố
tình chứng minh chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam thuộc về họ.
Loạt
bài 5 kỳ viết về vấn đề này sẽ làm sáng tỏ lý lẽ của Việt Nam và sự đuối lý của
Trung Quốc.
Kỳ 4: Trung Quốc từ chối yêu cầu
của Pháp ra tòa quốc tế để phân định chủ quyền Hoàng Sa
Theo Hiệp ước Patenotre năm 1884, Chính quyền thuộc
địa Pháp đã tiến hành các hoạt động đại diện cho Nhà nước Việt Nam trong
việc tiếp tục bảo vệ, quản lý và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cụ thể, sau một thời gian tổ chức các cuộc nghiên
cứu, khảo sát tại thực địa của các nhà khoa học và những cuộc trao
đổi giữa những chính khách Pháp có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa, ngày 8-3-1925, Toàn quyền Đông Dương đã tuyên bố khẳng định, quần
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là bộ phận lãnh thổ thuộc địa của Pháp.
Ngày 19-3-1926, Thống đốc Nam Kỳ cấp giấy phép nghiên cứu mỏ ở đảo Trường Sa
cho Công ty Phosphat của Bắc Kỳ.
Ngày 13-4-1930, Thông báo hạm Malicieuse do thuyền
trưởng De Lattre điều khiển ra quần đảo Trường Sa theo chỉ thị của Toàn quyền
Đông Dương dựng bia chủ quyền, đóng giữ đảo Trường Sa và các đảo, đá, bãi phụ
thuộc. Ngày 23-9-1930, Chính phủ Pháp gửi thông báo ngoại giao cho các cường
quốc về sự kiện đóng giữ quần đảo Trường Sa theo đúng thủ tục. Ngày 31-12-1930,
Phòng Đối ngoại Phủ Toàn quyền Đông Dương gửi báo cáo lên Thủ tướng,
Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp về những hoạt động đóng giữ đảo Trường Sa và các
đảo phụ cận, cũng như các tư liệu khảo cứu về pháp lý bảo vệ cho sự kiện đóng
giữ này.
Ngày 4-1-1932, Chính phủ Pháp gửi Công hàm tới Công
sứ Trung Quốc tại Paris khẳng định chủ quyền của Pháp đối với Hoàng Sa và đề
nghị giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán hữu nghị hoặc bằng phương thức
trọng tài quốc tế. Trung Quốc từ chối đề nghị này.
Ngày 18-2-1937, Pháp lại chính thức yêu cầu Trung
Quốc áp dụng phương thức trọng tài quốc tế để xác định chủ quyền quần đảo Hoàng
Sa; Trung Quốc lại khước từ.
Ngày 26-11-1937, Pháp phái kỹ sư trưởng J. Gauthier
ra Hoàng Sa để nghiên cứu tìm địa điểm xây dựng đèn biển, bãi đỗ cho thủy
phi cơ, nghiên cứu các điều kiện định cư ở quần đảo này. Năm 1938, Pháp phái
các đơn vị Bảo an đến đồn trú trên các đảo và xây dựng một hải đăng, một trạm
khí tượng được Tổ chức Khí tượng Thế giới cho đăng ký với số hiệu là 48859
ở đảo Phú Lâm, một trạm vô tuyến điện TSF trên đảo Hoàng Sa.
Ngày 15-6-1938, Pháp xây xong trạm khí
tượng ở đảo Ba Bình, quần đảo Trường Sa. Ngày 30-3-1938, vua Bảo Đại ký Dụ số
10 sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay vì Nam Ngãi trước đây. Ngày
15-6-1938, Toàn quyền Đông Dương Jules Brevie ký Nghị định 156-S-V thành
lập đơn vị hành chính cho quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản
tuyên bố sáp nhập các quần đảo trong Biển Đông vào các vùng lãnh thổ mà Nhật đã
chiếm đóng. Ngày 4-4-1939, Chính phủ Pháp gửi Công hàm phản đối các quyết định
nói trên của Nhật và bảo lưu quyền của Pháp tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 15-8-1945, Nhật thua trận phải rút khỏi Đông
Dương và ngày 26-8-1945, quân đội Nhật phải rút khỏi quần đảo Hoàng Sa và quần
đảo Trường Sa.
Sau khi Nhật rút đi, mở ra một thời kỳ mới vô cùng
phức tạp. Tiến sĩ Trục cho biết, trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946, đầu năm
1947, mặc dù Việt Nam đã tuyên bố độc lập ngày 2-9-1945, không còn ràng buộc
vào Hiệp định Patenotre 1884, song Pháp cho rằng, theo Hiệp định Sơ bộ ngày
6-3-1946, Việt Nam Dân chủ cộng hòa còn nằm trong khối Liên hiệp Pháp, về ngoại
giao vẫn thuộc Pháp nên Pháp có nhiệm vụ thực thi quyền đại diện Việt Nam
trong vấn đề chống lại mọi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa.
Theo Hiệp định ngày 8-3-1949, Pháp dựng lên chính
quyền thân Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu. Tuy
nhiên, trong thực tế quân đội Pháp vẫn làm chủ Biển Đông, trong đó có hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng trong năm 1949, Tổ chức Khí tượng Thế giới
đã chấp nhận đơn xin đăng ký danh sách các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào danh sách các trạm khí tượng thế
giới: Trạm Phú Lâm, số hiệu 48859, Trạm Hoàng Sa số 48860, Trạm Ba Bình số
48419.
Ngày 14-10-1950, Tổng trấn Trung phần Phan Văn Giáo
đã chủ trì việc bàn giao quản lý quần đảo Hoàng Sa giữa Chính phủ Pháp và Chính
phủ Bảo Đại.
Từ ngày 5-9 đến 8-9-1951, Hội nghị San Francisco có
đại diện của 51 nước tham dự để ký kết Hòa ước với Nhật. Tại phiên họp toàn thể
mở rộng ngày 5-9, với 48 phiếu chống, 3 phiếu thuận, hội nghị đã bác bỏ đề nghị
của Ngoại trưởng Gromyco (Liên Xô cũ) về việc tu chỉnh khoản 13 của Dự thảo Hòa
ước, trong đó có nội dung: Nhật thừa nhận chủ quyền của CHND Trung Hoa đối với
quần đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa về phía Nam.
Ngày 7-9-1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng của
Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã long trọng tuyên bố hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam. Không một đại biểu nào trong
hội nghị này có bình luận gì về tuyên bố này. Ngày 8-9-1951, Hòa ước với Nhật
được ký kết. Điều 2, Đoạn 7, của Hòa ước đã ghi rõ: “Nhật Bản từ bỏ chủ quyền,
danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracel và Sprathly” (khoản f).
Ngày 20-7-1954, Hiệp định Geneve được ký kết đã
công nhận một nước có nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất.
Điều 1 của Hiệp định đã quy định lấy sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) làm giới
tuyến tạm thời để phân chia quyền quản lý lãnh thổ giữa hai miền Nam-Bắc
của Việt Nam. Giới tuyến tạm thời này cũng được kéo dài bằng một đường thẳng từ
bờ biển ra ngoài khơi (Điều 4). Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa nằm
dưới vĩ tuyến 17 nên thuộc quyền quản lý của chính quyền miền Nam Việt Nam.
Tháng 4-1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi
Đông Dương, quân đội Quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam Cộng hòa, đã ra tiếp
quản nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa.
Trước những hành động xâm chiếm một số đảo ở
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Trung Quốc tiến hành vào thời điểm giao thời
này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối. Ngày 24-5
và 8-6-1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ra thông cáo nhấn mạnh, quần đảo
Hoàng Sa cùng với quần đảo Trường Sa “luôn luôn là một phần của Việt Nam” và
tuyên bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam.
Ngày 13-7-1971, tại Hội nghị ASPEC Manila, Bộ
trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Lắm đã tuyên bố khẳng
định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Từ ngày 17-1 đến 20-1-1974, Trung Quốc huy động lực
lượng quân sự đánh chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Trên mặt trận ngoại
giao, Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ trước Liên hợp quốc
và cộng đồng quốc tế.
Cũng trong thời gian này, Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tuyên bố nêu rõ lập trường của mình trước sự
kiện này.
Theo NGUYỄN HÒA (QĐNN)