TIN NÓNG HOÀNG SA-TRƯỜNG SA, BIỂN ĐÔNG (VIỆT NAM)

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2015

Xem Quân dội VN diễn tập bắn đạn thật



(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2015

Tin nóng Hoàng Sa (Biển Đông) Việt Nam

Thứ Hai, 20 tháng 7, 2015

Trung Quốc lớn tiếng ăn vạ dù đuối lý về vấn đề biển Đông



(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

Bài nói chuyện làm nóng rực Hội nghị Người Việt Nam ở Nước ngoài của Thiếu tướng Nguyễn Thanh Tuấn

(TNBĐ) -Hội nghị người Việt Nam ở Nước ngoài lần 2 kỳ này bỗng dưng từ đâu xuất hiện bất ngờ 1 "ngôi sao" bất đắc dĩ trong hội nghị, bởi vì bài nói chuyện của ông là bài nói chuyện được ủng hộ, phản ứng nồng nhiệt, được quan tâm lắng nghe, và phản hồi tích cực nhất trong tất cả các bài phát biểu, diễn văn trong hội nghị lần này.
Bài nói chuyện giản dị, chân thành, đầy tình cảm yêu nước thiết tha, không giống đang đọc diễn văn mà như đang nói chuyện tự nhiên với quan khách, báo cáo với kiều bào về tình hình Biển Đông, HS-TS, an ninh quốc phòng, và vấn đề đối ngoại với Trung Quốc. Nhiều vấn đề nhạy cảm, những câu chuyện ít người biết và không được đề cập trên báo chí chính thống cũng được nói thẳng ra.Tướng Nguyễn Thanh Tuấn cũng kể lại câu chuyện chỉ mới đây thôi: Đối đáp giữa TBT Nguyễn Phú Trọng của chúng ta và TBT Hồ Cẩm Đào của Trung Quốc trong chuyến thăm Trung Quốc gần đây. 2 lần trả lời, đối đáp thật hay, thật dứt khoát, vừa khôn khéo vừa khí phách, vừa nhu vừa cương của TBT Nguyễn Phú Trọng được thuật lại đã làm khán giả vỗ tay ầm ầm mấy lần, làm tướng Tuấn phải tạm dừng chờ hết tràng vỗ tay rồi mới kể tiếp được.

Khi nghe tướng Tuấn thuật lại đối đáp giữa TBT Nguyễn Phú Trọng và TBT Hồ Cẩm Đào, vốn nghiện lịch sử từ nhỏ nên mình liên tưởng ngay đến các đối đáp đầy hùng khí giữa Lê Đại Hành với sứ Tống, hay Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi với vua Tàu, và các giai thoại đối đáp Việt - Hoa lưu truyền trong lịch sử. Có thể nói TBT Nguyễn Phú Trọng đã không làm mất mặt, tổn hại quốc thể Việt Nam.

Thứ Hai, 22 tháng 6, 2015

Trung Quốc Gọi Việt Nam là CON KHỈ



(TGCT)-(Sao)

Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

Chiến dịch đánh lừa quốc tế của Trung Quốc về biển Đông

(TNBĐ) -Chiến lược “pháp lý” của Trung Quốc khi đòi chủ quyền trên biển Đông là lập luận "Bắc Kinh có chủ quyền lịch sử không thể tranh cãi”. Tuy nhiên hầu như Trung Quốc chẳng có bằng chứng lịch sử nào.
Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng bất hợp pháp năm 1974 - Ảnh: PhilStar
Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng bất hợp pháp năm 1974 - Ảnh: PhilStar
Trong bài viết với tựa đề Fact, fiction and the South China sea (Sự thật, hư cấu và biển Đông) trên tờ Asia Sentinel​, nhà báo BBC kỳ cựu Bill Hayton nhận định chiến lược “pháp lý” của Trung Quốc khi đòi chủ quyền trên biển Đông là lập luận "Bắc Kinh có chủ quyền lịch sử không thể tranh cãi”.
Tuy nhiên trên thực tế hầu như chẳng có bằng chứng lịch sử nào cho thấy Trung Quốc từng kiểm soát quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông trong quá khứ. 
Nhà báo Bill Hayton cho biết một số tài liệu ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông chủ yếu dựa vào “bằng chứng lịch sử” từ một số nghiên cứu xuất bản bằng tiếng Anh trong thập niên 1970.
Đó là cuốn Contest for the South China sea (Cạnh tranh ở Nam Hải) của các tác giả Hungdah Chiu, Choo Ho Park, Marwyn Samuels, China’s ocean frontier (Biên giới biển của Trung Quốc) của Greg Austin. Còn phải kể đến hai tài liệu do tác giả Jianmeng Shen xuất bản năm 1997 và 2002.
Trang Google Scholar thống kê 73 tài liệu nghiên cứu về biển Đông trích lại sách của Chiu và Park. Có tới 143 nghiên cứu khác trích dẫn sách của Samuels. Nghiên cứu của các tác giả Jianmen Shen hay Chi Kin Lo trích dẫn rất nhiều thông tin từ các sách này, đồng thời lại được các tài liệu khác trích dẫn lại hàng trăm lần.
Đây là những tài liệu tiếng Anh thuộc vào loại đầu tiên giải thích cho độc giả nói tiếng Anh về lịch sử tranh chấp biển Đông nhưng đều có những điểm sai sót chung không thể chấp nhận được. Điều nguy hiểm là chúng trở thành nguồn tài liệu tham khảo cho chính phủ nhiều quốc gia trên thế giới.
Sau khi chiếm quần đảo Hoàng Sa bất hợp pháp vào năm 1974, Trung Quốc bắt đầu mở chiến dịch đánh lừa dư luận quốc tế về "chủ quyền" tưởng tượng của nước này trên biển Đông - Ảnh: AFP
Sau khi chiếm quần đảo Hoàng Sa bất hợp pháp vào năm 1974, Trung Quốc bắt đầu mở chiến dịch đánh lừa dư luận quốc tế về "chủ quyền" tưởng tượng của nước này trên biển Đông - Ảnh: AFP
Những ấn phẩm đầu tiên
Những tài liệu tiếng Anh đầu tiên về tranh chấp chủ quyền biển Đông xuất hiện ngay sau cuộc hải chiến Hoàng Sa năm 1974, khi quân đội Trung Quốc xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp quần đảo Hoàng Sa do chính quyền Việt Nam cộng hòa kiểm soát.
Các phân tích đầu tiên do tạp chí Far Eastern Economic Review đăng là của tác giả Cheng Huan, khi đó là một sinh viên luật người Malaysia gốc Hoa sống ở London (Anh). Hiện ông Cheng Huan là một chuyên gia luật có tiếng ở Hong Kong.
Khi đó ông Cheng Huan viết: “Chủ quyền lịch sử của Trung Quốc đối với Tây Sa được chứng minh một cách đầy đủ bằng tài liệu lịch sử, bắt nguồn từ quá khứ cổ đại. Không quốc gia nào khác có thể chống lại được đòi hỏi chủ quyền này”.
Phán quyết của một sinh viên non nớt được tác giả Chi Kin Lo trích dẫn hùng hồn như một chân lý trong cuốn sách China’s policy toward territorial disputes(Chính sách của Trung Quốc đối với các tranh chấp lãnh thổ) năm 1989.
Các nghiên cứu học thuật xuất hiện đầu tiên vào năm 1975, bao gồm tài liệu của tác giả Tao Cheng do tạp chí Luật quốc tế Texas đăng và tác phẩm của Chiu và Park. Một năm sau đó, Viện Nghiên cứu châu Á ở Hamburg (Đức) đăng bài viết của học giả Đức Dieter Heinzig.
Tài liệu của Tao Cheng chủ yếu dựa vào các nguồn tham khảo từ Trung Quốc, bao gồm các tạp chí thương mại xuất bản vào thập niên 1930 như Tin tức đối ngoại hay Tạp chí Tân Á ở Thượng Hải, Minh báo của Hong Kong, Tạp chí Tin quốc giaNhân Dân Nhật Báo…   
Tao Cheng không hề trích dẫn bất kỳ tài liệu tham khảo nào của Pháp, Việt Nam hay Philippines. Sách của Chiu và Park cũng dựa vào các nguồn tương tự, trong đó có cả báo do Chính phủ Trung Quốc xuất bản.
Bài viết của Dieter Heinzig cũng dựa vào nguồn báo chí Hong Kong. Các nguồn thông tin này đều là của Trung Quốc, do đó rất thiên kiến. Lẽ ra các tác giả cần kiểm chứng chúng trước khi sử dụng nhưng họ không hề làm như vậy.
Đều thân Trung Quốc
Rồi đến lượt cuốn Contest for the South China sea của Marwyn Samuels cũng mắc phải các lỗi tương tự. Bản thân Samuels cũng thừa nhận ông ta thiên về Trung Quốc và chủ yếu lấy tài liệu tham khảo từ Đài Loan.
Cuối thập niên 1990, cựu nhân viên Bộ Ngoại giao Mỹ Daniel Dzurek viết bài nghiên cứu cho ĐH Durham và học giả Úc Greg Austin xuất bản một cuốn sách về đề tài biển Đông.
Bài viết của Dzurek và sách của Austin đều dẫn nguồn tham khảo từ tài liệu của Samuels, Chiu, Park và một tài liệu của Bộ Ngoại giao Trung Quốc với tựa đề "Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa".
Một tác giả có ảnh hưởng sau đó là giáo sư luật Mỹ gốc Hoa Jiangmin Shen thuộc Trường Luật ĐH St. John ở New York. Năm 1997 tạp chí Hastings International and Comperative Law Review đăng bài phân tích của Shen về “chủ quyền Trung Quốc” trên biển Đông. Sau đó Tạp chí Luật quốc tế Trung Quốc đăng một bài khác tương tự của Shen.
Nhà báo Bill Hayton bình luận việc nhiều tài liệu của Bộ Quốc phòng Mỹ về biển Đông đều là sản phẩm do Trung Quốc xuất bản là điều rất đáng buồn.
Và tất cả các tác giả trên đều không phải là chuyên gia về lịch sử hàng hải biển Đông.
Họ hoàn toàn không thẩm định mà sử dụng tự do các tài liệu tham khảo mù mờ, thiếu giá trị.
Hai bài viết này được các tài liệu khác trích dẫn hàng trăm lần. Tuy nhiên phân tích kỹ thì thấy các bài viết của Shen cũng đều dựa vào các nguồn không đáng tin cậy. Một là cuốn sách Luật quốc tế của tác giả Duanmu Zheng do NXB ĐH Bắc Kinh xuất bản năm 1989.
Duanmu Zheng thực tế là một quan chức cấp cao của Chính phủ Trung Quốc, đương nhiên phải có quan điểm ủng hộ Trung Quốc. Các tài liệu tham khảo khác của Shen là tài liệu do Tổng cục Hải dương Trung Quốc xuất bản.
Cheng, Chiu và Shen đều là người Trung Quốc. Còn Samuels và Heinzig đều là học giả có nhiều năm sống và làm việc tại Trung Quốc, có quan hệ thân cận với chính quyền Trung Quốc.
Các bằng chứng yếu ớt
Không có gì ngạc nhiên khi các tài liệu tiếng Anh về xung đột biển Đông do tác giả Trung Quốc viết, dựa vào nguồn tham khảo từ Trung Quốc, lại có quan điểm thiên về Trung Quốc.
Những kết luận của Cheng, Chiu và Park như “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi” đối với Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông được rất nhiều nghiên cứu quốc tế hiện nay trích dẫn lại.
Nhưng rõ ràng là chúng không đáng tin cậy bởi nguồn tài liệu tham khảo của chúng rất mù mờ và ít giá trị. Các tác giả Cheng, Chiu, Park, Shen và Samuels đều có nhận định chung rằng Trung Quốc luôn kiểm soát biển Đông từ nhiều thế kỷ qua.
Nhưng trên thực tế nghiên cứu của các sử gia nổi tiếng như Leonard Blussé, Derek Heng, Pierre-Yves Manguin, Roderich Ptak, Angela Schottenhammer, Li Tana, Nicholas Tarling và Geoff Wade phản ánh quan điểm hoàn toàn trái ngược.
Các tàu thương nhân Trung Quốc hầu như không hoạt động trong thương mại hàng hải ở biển Đông cho đến tận thế kỷ 10. Sau đó, tàu Trung Quốc cũng hoàn toàn không phải là thế lực chi phối hoạt động thương mại biển Đông.
 Nhà báo BBC kỳ cựu Bill Hayton viết
Thương nhân rất nhiều quốc gia, từ các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, Ả Rập cho đến châu Âu mới là đối tượng hoạt động mạnh tại đây. Nghiên cứu của các sử gia François-Xavier Bonnet, Ulises Granados và Stein Tonnesson cho thấy tình hình đó kéo dài tới tận thế kỷ 20.
Các tài liệu đầu thế kỷ 20 cũng cho thấy Trung Hoa khi đó không đủ sức bảo vệ bờ biển nước mình, và hoàn toàn không hiện diện ở các vùng biển đảo cách bờ biển nước này hàng trăm hải lý. Hai bài báo đăng trên tờ The Times of London tháng 1-1908 cho biết chính quyền Trung Hoa không thể kiểm soát được nạn hải tặc ở Tây Giang tại Quảng Châu.
Năm 1909, báo Úc The Examiner đưa tin người nước ngoài tự do khai thác mỏ ở đảo Hải Nam mà không hề bị chính quyền địa phương ngăn chặn. Trên thực tế, các tài liệu lịch sử đáng tin cậy đều cho thấy Trung Quốc không hề có bất kỳ hoạt động đáng kể nào ở biển Đông cho tới tận giữa thế kỷ 20.
Chỉ từ năm 1909, khi doanh nhân Nhật Nishizawa Yoshiji đến đảo Pratas (Đông Sa, hiện do Đài Loan kiểm soát) thì phía Trung Quốc mới bắt đầu nhòm ngó các đảo ở biển Đông.
Mời bạn đọc xem kỳ sau: Các bằng chứng ngụy tạo của Trung Quốc ở biển Đông
Nguồn: Tuổi trẻ


 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015

(TNBĐ)-Luật sơ hở, đại biểu Quốc hội lo lắng chủ quyền biển đảo

(TNBĐ) -Nhiều đại biểu đã phản ứng quyết liệt vì dự án Luật tài nguyên môi trường biển và hải đảo không đưa các bãi cạn nửa nổi, nửa chìm, đảo ngầm, bãi đá, san hô... vào chương “Quản lý tài nguyên hải đảo”.

Ba đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP.HCM), Nguyễn Viết Nhiên (Hải Phòng) và Lê Việt Trường (An Giang) đã làm nóng nghị trường Quốc hội trong phiên họp ngày 28-5 bằng những phản ứng, phân tích lập luận chặt chẽ xung quanh vấn đề này.

Không cẩn thận, sẽ mất chủ quyền
Theo các đại biểu, dự án Luật tài nguyên môi trường biển và hải đảo đã có sơ hở khi không đưa các bãi cạn nửa nổi, nửa chìm, đảo ngầm, bãi đá, bãi san hô. .. vào nội dung điều chỉnh của chương “Quản lý tài nguyên hải đảo”.
Điều này có nghĩa các cấu trúc trên sẽ không nằm trong tầm điều chỉnh của dự luật.
“Như vậy thì chúng ta không quản lý được tài nguyên ở các cấu trúc này. Và thậm chí là sẽ mất chủ quyền, nhất là trong bối cảnh Trung Quốc đang tiến hành các hoạt động mở rộng, bồi đắp và xây dựng trên các đảo chìm tại Trường Sa” - Đại biểu Trương Trọng Nghĩa nói.
Lý do không đưa các dạng đảo này vào luật được Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) giải thích là theo quy định tại Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và Luật biển Việt Nam thì các bãi cạn chìm xuống khi triều lên và nổi lên khi triều xuống là bãi cạn lúc nổi, lúc chìm, không được coi là đảo, và Luật biển Việt Nam cũng không quy định về đối tượng này.
Tuy nhiên đại biểu Trương Trọng Nghĩa đã phản đối lập luận này. Ông Nghĩa cho rằng UBTVQH giải thích như vậy là chưa chuẩn vì điều 19 và 20 của Luật biển quy định về chế độ pháp lý của đảo và quần đảo có nhắc đầy đủ các cấu trúc bãi cạn nửa nổi, nửa chìm, đảo ngầm, bãi đá, bãi san hô.
“Luật quy định như thế này thì rất sơ hở, bỏ mất sự bảo vệ chủ quyền, quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên một số cấu trúc vật chất ở ngoài biển. Khi người ta khai thác mình không có cơ sở luật để phản bác vì chỉ nói đảo và hải đảo, chứ đâu nói bãi đá" - Ông Nghĩa nói.
Có luật mới phản đối được Trung Quốc
Ngay sau đó, đại biểu, chuẩn đô đốc Nguyễn Viết Nhiên - Phó tư lệnh quân chủng hải quân cũng cho rằng nên “hết sức cân nhắc” việc đưa các bãi cạn nửa nổi, nửa chìm, đảo ngầm, bãi đá, bãi san hô vào phạm vi điều chỉnh của luật.
Chuẩn đô đốc Nguyễn Viết Nhiên nói ông đồng ý với lập luận của đại biểu Trương Trọng Nghĩa. Đại biểu Nhiên thông tin, tại Trường Sa hiện nay phía Bruney dù không chiếm giữ đảo hay bãi cạn, đá ngầm nào nhưng họ vẫn tuyên bố chủ quyền với một bãi đá ngầm.
Trung Quốc cũng đang chiếm giữ 7 đảo chìm. “Việc luật xem nhẹ cấu trúc này sẽ gây khó khăn hơn trong việc bảo vệ chủ quyền” - Chuẩn đô đốc Nguyễn Viết Nhiên nói.
Cùng quan điểm này, đại biểu Lê Việt Trường - Phó chủ nhiệm ủy ban An ninh, quốc phòng của Quốc hội cũng cho rằng không đưa các cấu trúc đảo như trên vào luật là bất hợp lý.
Theo đại biểu Trường, việc Trung Quốc đang đổ hàng vạn tấn sắt thép, đất đá để bồi đắp, mở rộng đảo như hiện tại trên các đảo chìm, bãi đá ngầm trong khi chúng ta tự loại bãi đá ngầm, đảo chìm ra khỏi Luật tài nguyên môi trường biển và hải đảo thì sẽ rất khó lên tiếng phản đối.
“Đồng thời khi có luật, chúng ta phản đối hành động phá hủy môi trường biển trong việc mở rộng đảo của Trung Quốc sẽ được sự ủng hộ của quốc tế dễ dàng hơn khi chúng ta chỉ phản đối về vấn đề chủ quyền” - Ông Lê Việt Trường nói.
Tiếp thu các ý kiến này, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho biết UBTVQH đã lắng nghe và sẽ xem xét chỉnh sửa phù hợp.



 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2015

Clip 2: Trung Quốc xây đảo nhân tạo trái phép ở Biển Đông



(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Clip 1: Trung Quốc xây đảo nhân tạo trái phép ở Biển Đông

Thứ Năm, 14 tháng 5, 2015

Khám phá Hang Sơn Đoòng-Việt Nam (Kênh ABC)



(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Chủ Nhật, 3 tháng 5, 2015

Hải Quân Việt Nam tổ chức diễu hành kỷ niệm 60 năm ngày thành lập



(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Văn nghệ đặc biệt chào mừng 40 năm GPMN "Đất nước trọn niềm vui"



(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2015

Diễu binh kỷ niệm 40 năm giải phóng Miền Nam



(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Am mưu độc chiếm biển Đông của Trung Quốc



(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Tư, 29 tháng 4, 2015

(NLLS)-Ôm nhau khóc giữa Trường Sa khi nghe tin Sài Gòn giải phóng

(TNBĐ) -Trong lúc các cánh quân của Chiến dịch Hồ Chí Minh tiến thần tốc áp sát Sài Gòn, đoàn tàu không số chở 300 chiến sĩ bí mật vượt trùng khơi giải phóng quần đảo Trường Sa.


Gặp nhau trong không khí của tháng 4 lịch sử, câu chuyện giữa đại tá Phạm Duy Tam và thiếu tướng Lê Kế Lâm lập tức trở nên rôm rả. Dù đã 40 năm, những ngày tháng gian khổ nhưng rất hào hùng của tháng 4/1975 chưa bao giờ phôi phai trong ký ức của hai người lính biển lớn tuổi.
Đại tá Tam nguyên là Phó tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân, một trong những thuyền trưởng tàu không số tham gia biên đội “C75” giải phóng quần đảo Trường Sa còn thiếu tướng Lâm nguyên là Chuẩn đô đốc Hải quân.
Hành quân thần tốc trên biển Giữa khí thế tiến nhanh như vũ bão của Cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975, ngày 9/4/1975, biên đội gồm ba tàu không số của Đoàn 125 Hải Quân, mang hiệu 673, 674, 675 nhận lệnh hành quân cấp tốc từ Hải Phòng vào Đà Nẵng với nhiệm vụ bí mật. Theo đại tá Tam, biên đội lập tức ngụy trang thành tàu cá lên đường. Trong đó ông Nguyễn Xuân Thơm làm thuyền trường tàu 673, Nguyễn Văn Đức thuyền trưởng tàu 674 và ông Tam thuyền trưởng tàu 675. Hơn một ngày lênh đênh trên biển, khuya 10/4/1975, ba tàu cập cảng Tiên Sa (Đà Nẵng).
Đến nơi, ông Tam và đồng đội mới biết mình được giao nhiệm vụ giải phóng Trường Sa, đang do lực lượng của Việt Nam Cộng hoà chiếm giữ. Chiến dịch trực tiếp do đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy, mật danh "C75". Tức tốc trong đêm 10/4, các nhu yếu phẩm được bốc dỡ lên tàu. 4h sáng 11/4, ba tàu không số thẳng tiến biển Đông, mang trên mình sứ mệnh lịch sử. “Nhiệm vụ cấp trên giao là phải phân biệt được các đảo mà quân chính quyền cũ đang đồn trú vào đêm tối, tuyệt đối không đánh nhầm vào đảo mà các nước khác đang chiếm giữ. Đảm bảo bí mật, thần tốc khiến họ không kịp trở tay”, đại tá Tam nhấn mạnh. Theo tin tình báo, đầu tháng 4/1975, quân đội Việt Nam Cộng hoà trấn giữ 6 đảo tại quần đảo Trường Sa gồm Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang và đảo Trường Sa Lớn - nơi có đường băng dài 500-600 m và gần 200 lính đồn trú. Các đảo đều có bia chủ quyền. Xung quanh là những đảo do các nước khác chiếm giữ. Hai tàu chiến của làm nhiệm vụ tiếp tế, yểm trợ cho quân đồn trú. Trong khi đó, biên đội quân giải phóng gần 300 chiến sĩ tinh nhuệ, dày dạn trận mạc. Đây là nhiệm vụ cực kỳ khó khăn bởi phương tiện kỹ thuật, máy móc trang bị trên tàu gần như là con số không. Trang bị duy nhất là một chiếc la bàn từ chỉ hướng đi cùng một số dụng cụ đo đạc, tính toán thiên văn xác định phương hướng giữa biển nước mênh mông.
Nhấp ngụm trà, đại tá Tam chỉ tay qua thiếu tướng Lâm, giọng hồ hởi: “May mắn trong thời gian học tại Học viện Hải quân, chúng tôi được thầy Lâm dạy môn tính toán thiên văn trong việc đi biển. Thầy dạy theo cách 'cầm tay chỉ việc', bởi thời đó trang thiết bị dạy học rất thiếu thốn. Nhờ những bài dạy của thầy, nhiều học viên trở thành thuyền trưởng tàu không số ra Bắc vào Nam, chở vũ khí chi viện cho chiến trường".
heo vị thuyền trưởng, nhờ cách tính thiên văn, sau 3 đêm hành quân liên tục trong điều kiện sóng to gió lớn, biên đội tàu không số vượt 480 hải lý (gần 900 km) đến quần đảo Trường Sa. “Dù biết mỗi chuyến đi có thể không trở về, được đồng đội làm lễ đưa tiễn như 'truy điệu sống' nhưng từng người trên đoàn tàu không số đều cảm thấy tự hào vì tin tưởng ngày toàn thắng không xa", ông Tam xúc động. Chia sẻ thêm về nhiệm vụ bí mật, Chuẩn đô đốc Lâm cho hay, khó khăn của quân giải phóng là đặc công nước chưa từng đánh trong điều kiện biển rộng. “Nhưng không phải là không đánh được. Họ là những đặc công tinh nhuệ, từng đánh nhiều trận sinh tử”, ông Lâm nói. Những ngày hành quân trên biển, biên đội có lần đối mặt với máy bay, tàu chiến Hạm đội 7 của Mỹ đang đóng quân ở hải phận quốc tế, sẵn sàng chi viện cho chính quyền Sài Gòn trong trường hợp khẩn cấp. Các tàu không số phải đi vòng, cải trang thành tàu cá nước ngoài, khôn khéo né tránh, đảm bảo bí mật. Theo vị đại tá, thời kỳ đó, các đảo ở Trường Sa rất ít cây cối. Đảo Song Tử Tây có ít cây dừa, vài mái nhà tôn đồn trú của quân Việt Nam Cộng hoà. Chiều cao trên mặt nước biển chỉ 1,5-4,5 m rất khó phát hiện và phân biệt. Càng khó khăn hơn khi lực lượng giải phóng phải đánh trận vào lúc khuya, tận dụng yếu tố bất ngờ.

Chiến thắng chớp nhoáng
Nhớ lại lúc chuẩn bị lâm trận, thuyền trưởng tàu 675 cho hay, biên đội đã nghiên cứu kỹ đặc điểm từng đảo, trao đổi cách đánh và chọn tấn công Song Tử Tây trước. Đêm 13 rạng sáng 14/4, tàu 674 và 675 chạy ra án ngữ phía tây bắc, đề phòng đối phương từ phương Bắc xuất hiện cũng như nghi binh với hai tàu chiến của Việt Nam Cộng hoà đang neo ở đảo Nam Yết.
Tàu 673 lặng lẽ tiếp cận, dùng xuồng cao su nhỏ chở 40 lính đặc công bí mật đổ bộ lên đảo, vào vị trí chiến đấu.
h30 ngày 14/4, quân giải phóng bắn phát đạn DKZ làm hiệu lệnh tấn công chiếm đảo đợt 1, toàn đội hình đồng loạt tiến lên. Chỉ sau 30 phút, các chiến sĩ đã làm chủ hoàn toàn Song Tử Tây. Tin thắng trận được báo về sở chỉ huy ở đất liền. 5h, cờ giải phóng được kéo lên ở Song Tử Tây khiến quân Việt Nam Cộng hoà ở các đảo khác vô cùng bất ngờ nhưng không dám phản kháng. Tàu 673 và 675 neo lại đảo, củng cố lực lượng, tổ chức kế hoạch phòng thủ. Các chiến sĩ đặc công tiến hành trinh sát thu thập thông tin để tấn công đảo Sơn Ca. Vài ngày sau, biên đội được tàu 641 đến chi viện. Khuya 24 rạng sáng 25/4, tàu 641 chở đặc công nước Đoàn 126 tiếp cận đảo Sơn Ca. 2h30, các chiến sĩ bắt đầu tấn công, quân chính quyền Sài Gòn chống trả rồi rút vào công sự cố thủ. Đại tá Lâm kể: “Quân giải phóng lên tiếng kêu gọi, chúng tôi là quân giải phóng quân đội Nhân dân Việt Nam, đến giải phóng Trường Sa, đề nghị mọi người đầu hàng. Sau lời kêu gọi, 18 lính Việt Nam Cộng hoà buông súng, phất cờ trắng”.

Hai đảo quan trọng là Song Tử Tây và Sơn Ca bị đánh bại chớp nhoáng khiến lực lượng quân đồn trú của chính quyền Sài Gòn trên đảo Trường Sa, Nam Yết, Sinh Tồn, An Bang hoang mang, kéo nhau lên hai tàu chiến tháo chạy vào bờ. Hai tàu 673 và 674 chớp thời cơ, nhanh chóng đổ bộ và kéo cờ của Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam. Tàu 675 chở bộ binh của quân khu 5 đổ quân tăng cường trấn thủ. Đến ngày 29/4, biên độ C75 chiếm giữ được 6 đảo nổi ở quần đảo Trường Sa do hải quân Việt Nam Cộng hòa đóng quân trước đó. Lúc này trên đất liền, quân giải phóng liên tục thắng lớn, giải phóng nhiều tỉnh thành, tạo vòng vây áp sát Sài Gòn. “Trưa 30/4, khi tàu đang ở trên đảo Nam Yết chuẩn bị hành quân đi giải phóng Côn Đảo thì chúng tôi nhận tin Sài Gòn được giải phóng, đất nước hoàn toàn thống nhất. Niềm hạnh phúc tràn ngập tâm trí, mọi người chỉ biết ôm nhau khóc lớn”, vị thuyền trưởng 70 tuổi nhớ lại. Cũng theo đại tá Tam, ngay sau cuộc tấn công giải phóng đảo, quân lính đối phương được đưa vào đất liền giao cho Ban quân quản. Lúc trên tàu họ rất sợ, nhưng được nói chuyện và được trấn an, họ bình tĩnh hơn. "Chiến sĩ ăn uống ra sao thì những người lính của chính quyền Sài Gòn cũng được phần như vậy, không có gì khác biệt. Không biết họ còn nhớ chúng tôi không. Nếu bây giờ có cuộc hội ngộ, chắc cảm xúc khó diễn tả lắm", vị thuyền trưởng già chia sẻ



 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2015

(Trung Quốc)-Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc ngày nay (kỳ 13)

Kỳ 13: Mao Trạch Đông 3 lần thoát chết trên đường tàu

Lâm Bưu (đọc diễn văn) và Mao Trạch Đông (bìa phải) trong những ngày còn "cướp diễn đàn cứu giá"

(TNBĐ) -Trong vòng ba ngày (từ 10 - 13.9.1971), Mao Trạch Đông đã ba lần thoát khỏi hiểm họa chết người trên đoạn đường tàu từ Thượng Hải đến Bắc Kinh do “người bạn chí cốt” của ông là Phó thống soái Lâm Bưu giăng sẵn…

Thật ra Vương Duy Quốc không thể tiếp cận để “ngồi trước mặt” Mao Trạch Đông được. “Buổi ăn trưa” trên chuyên xa hôm 11.9 cũng bị bãi bỏ. Hồi ức của Uông Đông Hưng, Chỉ huy trưởng lực lượng bảo vệ ưu tú của Mao Trạch Đông (Trung đoàn đặc nhiệm 8341) và của Trường Giang, Chỉ huy phân đội đặc biệt luôn túc trực cạnh Mao Trạch Đông suốt chuyến hành trình, đã kể lại khi đoàn tàu chở Mao Trạch Đông đến Thượng Hải tối 10.9.1971, Mao Trạch Đông sai bí thư của mình gọi điện thoại cho Hứa Thế Hữu, Tư lệnh Đại quân khu Nam Kinh, đến gặp gấp vào sáng hôm sau 11.9…
Hứa Thế Hữu đáp máy bay trực thăng từ Nam Kinh bay thẳng đến Thượng Hải, lên chuyên xa gặp Mao Trạch Đông, bàn bạc việc gì đó lâu lắm. Trường Giang kể: “Đã đến lúc ăn cơm trưaMao Chủ tịch không giữ Hứa Thế Hữu ở lại ăn cơm, còn nói: “Chú tự ăn nhé!”. Khi ra về Hứa Thế Hữu nói thêm một câu: “Xin Chủ tịch yên tâm (…) chúng tôi đã chuẩn bị chu đáo rồi”.
Vậy hôm ấy không có chuyện “ăn trưa” trên chuyên xa và cũng không có chi tiết Vương Duy Quốc có thể “ngồi trước mặt” Mao Trạch Đông để thực hiện “kế hoạch 571” của Lâm Bưu được. Tân Tử Lăng giải thích: “Vương Duy Quốc nhận nhiệm vụ mưu sát Mao, y giấu súng ngắn trên xe hình như bị phát giác; nên không được tiếp cận chuyên xa”!.
Trước đó, những “sát thủ” của Lâm Bưu tại Thượng Hải đã vạch thêm một phương án khác (ngoài cách bố trí để Vương Duy Quốc bắn trực tiếp), là:
“Trong trường hợp chuyên xa dừng ở sân ga chuyên vận Ngô Gia gần sân bay Hồng Kiều (Thượng Hải), sẽ đặt bom làm nổ tung kho xăng dầu nằm cách đó hơn 100 mét, lợi dụng lúc khói lửa bốc lên mù mịt sẽ nhào đến tấn công chuyên xa và “thanh toán” gọn Mao Trạch Đông”.
Đúng là chuyên xa đã dừng lại sân ga Ngô Gia. Song “đội hành động 571” của Lâm Bưu không dễ ra tay theo dự tính, là vì - như Trường Giang (vệ sĩ theo suốt cuộc tuần du để bảo vệ Mao Trạch Đông) ghi rõ:
“Khoảng 18 giờ cùng ngày (10.9), đoàn tàu di chuyển thuận lợi tới ga chuyên vận Ngô Gia ở gần sân bay Hồng Kiều (Cầu Vồng) của Thượng Hải (…) Uông Đông Hưng yêu cầu chúng tôi cảnh giới nghiêm ngặt chung quanh đoàn tàu, tại vị trí trọng điểm bố trí 2 vọng gác tăng cường cán bộ trực ban. Chiếu theo yêu cầu của Ưng Đông Hưng, cùng một lúc chúng tôi tăng cường 5 vọng gác, còn thành lập tổ ba người trang bị  súng tiểu liên tuần tra lưu động”.
Trong số 5 vọng gác ấy có một vọng gác đặt ngay tại kho xăng dầu cách chuyên xa không xa, nên “đội hành động 571” khó mà lọt vào để đặt bom. Tuy vậy đội “hành quyết” nghĩ rằng họ còn có thời gian để thực hiện nhiệm vụ “ám sát B.52 (tức Mao Trạch Đông)” theo lệnh Lâm Bưu và Lâm Lập Quả. Vì Mao Trạch Đông ít nhất cũng ở lại Thượng Hải vài ngày theo lệ thường đã có của ông suốt 20 năm qua. Nhưng họ đã lầm. Bởi bất ngờ, Mao Trạch Đông bỏ thông lệ, ra lệnh cho đoàn tàu tăng tốc rời khỏi Thượng Hải lúc 13 giờ 12 phút hôm ấy 11.9 (không lâu sau khi đã bàn xong “chuyện gì đấy” với Tư lệnh Hứa Thế Hữu, không mời cơm trưa và tiễn Tư lệnh xuống tàu).
Lệnh khởi hành không báo trước với bất cứ ai trong ban lãnh đạo Thượng Hải. Đó là điều bất thường. Bất thường nữa là việc Mao Trạch Đông lệnh Uông Đông Hưng và Trường Giang tăng cường “cảnh giới nghiêm ngặt” suốt thời gian tàu dừng ở đó (chỉ một đêm) và ông không hề bước xuống sân ga như các chuyến đi trước. Mao Trạch Đông đã phát giác âm mưu của Lâm Bưu?
Không. Lúc đó ông chưa biết rõ “kế hoạch tuyệt mật 571” của Lâm Bưu. Nhưng cách đó một ngày, khi còn ở Hàng Châu trên lầu số 1 của Lưu Trang (cạnh Tây Hồ), ông đã được một “nhân viên phục vụ” mật báo trực tiếp bằng miệng với mình: “Có người chuẩn bị máy bay, có người còn chỉ trích đoàn tàu chở Mao Chủ tịch dừng trên trục đường sân bay Kiển Kiều gây “trở ngại” cho “người bộ hành”, hãy nhanh chóng rời khỏi nơi đây”.
Bằng trực quan lịch lãm và kinh nghiệm cảnh giác khác thường, Mao Trạch Đông tự “giải mã” mật khẩu trên, đã tức tốc ra lệnh rời khỏi nơi đang ở, mặc dù đang giữa 12 giờ trưa, lúc nhiều người trong đoàn đang ngủ. Hoặc đang tắm, quần áo phơi chưa khô, cũng phải dùng áo đi mưa bọc lại mang theo. Tất cả yên lặng rời Lưu Trang ngay để lên tàu theo lời dặn của Mao Trạch Đông:
- “Không được báo cho Trần Lê Vân và bọn họ biết, cũng không cần họ đưa tiễn”. Trần Lê Vân là Chính ủy Quân đoàn 5 Không quân, nằm trong cuộc vận động của Lâm Bưu thành lập: “Hạm đội liên hợp” (do Lâm Lập Quả làm Tư lệnh) lúc ấy đang cùng “một số lãnh đạo của quân khu tỉnh Triết Giang cũng đang ở một tòa nhà nằm trong quần thể kiến trúc của Lưu Trang gần chỗ của Mao Trạch Đông” - theo Trần Trường Giang. Tàu rời Hàng Châu đến Thượng Hải, lại rời Thượng Hải về Bắc Kinh, gấp gáp như đã viết ở trên.
Lúc này, “bộ tư lệnh” của Lâm Bưu đang theo dõi sát sao lịch trình chuyển dịch của Mao Trạch Đông trên đường tàu và đã triển khai “kế hoạch 571” đưa lực lượng xung kích của “Hạm đội liên hợp” đến xem xét địa hình đặt chất nổ dưới chân cầu Thạc Phóng nhằm đánh sập cầu này khi chuyên xa của Mao Trạch Đông rời Thượng Hải chạy ngang qua đó… (còn nữa)

 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

(Trung Quốc)-Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc ngày nay (kỳ 12)

Kỳ 12 - Kế hoạch số 571: Mưu sát Mao Trạch Đông

Gia đình Lâm Bưu

(TNBĐ) - Bản kế hoạch tuyệt mật mang tên “Kỷ yếu công trình 571” soạn thảo tại căn hầm nằm dưới một tòa nhà ở Thượng Hải nhằm mưu giết Mao Trạch Đông đã không loại trừ việc sử dụng các phương tiện đặc chủng để thực hiện - kể cả dùng đến hơi độc hóa học lẫn… vũ khí vi trùng!
Lúc quan hệ giữa Mao Trạch Đông và Lâm Bưu đang thời kỳ “trăng mật” - Lâm Bưu nhiều lần nâng Mao Trạch Đông lên “nóc nhà thế giới”, như nói: “Mao Chủ tịch là thiên tài vĩ đại nhất của giai cấp vô sản !” (tại Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng - Bắc Kinh 5.1966).
Đáp lại, Mao Trạch Đông tuyên bố: Lâm Bưu là người bạn chiến đấu thân thiết và là người sẽ kế tục Mao Trạch Đông làm Chủ tịch đảng. Điều ấy ghi cả vào Điều lệ mới của đảng ở phần “cương lĩnh chung” (tại Đại hội 9 Đảng CSTQ - tháng 4.1969).
Từ đó “người nhà” của Lâm Bưu bành trướng thế lực ngày một lớn, chiếm 19 ghế lãnh đạo hàng đầu tại 29 tỉnh thành toàn Trung Quốc, giành 54 vị trí làm trưởng hoặc phó của các Đại quân khu… Ảnh hưởng của Lâm Bưu cùng các diễn tiến phức tạp sau hậu trường chính trị với Mao Trạch Đông từ năm 1969 đến đầu 1971 dẫn đến mâu thuẫn giữa hai người tới mức khó hàn gắn. 
Phần Lâm Bưu, dầu ngoài mặt luôn luôn chứng tỏ “kiên trì quan điểm Mao Trạch Đông là thiên tài”, cũng như hô hào “tuyệt đối phục tùng Mao Chủ tịch”, nhưng bên trong âm thầm chuẩn bị đảo chánh, nhiều lần nói với vợ mình là Diệp Quần : “Bí quyết đảo chánh ở hai chữ “quyền” và “nhanh”. Các cuộc đảo chánh hiện đại có thể đoạt quyền trong một buổi sớm. Làm đảo chánh cần trả cái giá “đoạt quyền phải nhỏ nhất, nhỏ nhất, nhỏ nhất - thu hoạch phải lớn nhất, lớn nhất, lớn nhất - thời gian thực hiện phải nhanh nhất, nhanh nhất, nhanh nhất”…
Ở vị trí Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Lâm Bưu bí mật chọn những sĩ quan cao cấp, tin cẩn trong Bộ Tư lệnh không quân và các Quân đoàn tại Thượng Hải, Vũ Hán, Nam Kinh, Hàng Châu tiến tới thành lập Hạm đội liên hợp để giao con trai mình là Lâm Lập Quả làm Tư lệnh. Lâm Lập Quả tốt nghiệp khoa Vật lý Đại học Bắc Kinh năm 21 tuổi (1967), từng được Mao Trạch Đông ưu ái gọi: “tiểu tướng dám nghĩ dám làm”. Vì Lâm Lập Quả táo bạo đưa một lực lượng quân đội dưới quyền bạt nửa ngọn núi Hoàng Dương làm vị trí đặt radar hướng về phía thủ đô Moskva của Liên Xô với khả năng phát hiện nhanh “lúc Liên Xô khởi động phóng tên lửa xuyên lục địa” vào đất Trung Quốc. Năm Lâm Lập Quả 23 tuổi (1969) tư lệnh không quân Ngô Pháp Hiến (phe Lâm Bưu) bổ nhiệm Quả làm Phó chủ nhiệm Văn phòng kiêm Phó Ban tác chiến Quân chủng Không quân và đồng ý cho phổ biến trong nội bộ một nhận định “vượt khung” về Lâm Lập Quả: “Có đủ bản lĩnh của một lãnh tụ, nay biết được rồi chúng ta phải theo suốt đời dù bão táp mưa sa cũng không lùi bước”  “Lâm Lập Quả toàn tài, toàn soái, siêu tài, xứng đáng là người kế tục thuộc thế hệ thứ 3” (ý nói sau này Lâm Bưu làm Chủ tịch đảng thay Mao Trạch Đông, khi Lâm Bưu rời vị trí sẽ đến Lâm Lập Quả kế vị). Chẳng ngờ các phát biểu trên được “người ngoài cuộc” ghi âm và chuyển đến tận tay Mao Trạch Đông. Nghe xong, Mao Trạch Đông gọi Giang Thanh và những “tùy tướng” tin cẩn đến nghe, rồi phán - đại ý:
- Các người thấy rõ chưa, tôi còn chưa chết, đồng chí Lâm Bưu chưa lên thay mà đã vội vàng lo kiếm người kế tục mình. Chẳng lẽ một đứa trẻ ngoài 20 tuổi như Lâm Lập Quả được tâng bốc lên thành siêu thiên tài, chẳng phải nó là lãnh tụ đương không bỗng mọc ra
từ nhà họ Lâm cho đảng ta à?
Mao Trạch Đông quyết định thanh trừng Lâm Bưu.
Lâm Bưu cũng không kém, đưa Lâm Lập Quả, Chu Vũ Trì, Vu Tân Dã, Lý Vĩ Tín nghiên cứu kế hoạch lật đổ Mao Trạch Đông, họp mặt bí mật tại căn hầm tòa nhà số 889 đường Cự Lộ (Thượng Hải) trong ba ngày 21 đến 24.3.1971 vạch sẵn kế hoạch mưu sát Mao Trạch Đông với tên gọi “kỷ yếu công trình 571”. Tài liệu Tân Tử Lăng tường thuật (tóm lược):
Điểm cốt yếu của kế hoạch trên là giết chết Mao bằng cách lợi dụng một cuộc họp cấp cao nào đó để “quăng mẽ lưới bắt gọn”. Hoặc “dùng các phương tiện đặc chủng như hơi độc, vũ khí vi trùng, tên lửa, máy bay ném bom”. Hoặc “dựng cảnh tai nạn ô tô ám sát bắn trực tiếp, bắt cóc để giết Mao Trạch Đông”. Soạn thảo xong, Lâm Bưu sai Lâm Lập Quả thành lập đội huấn luyện quân sự dành cho các cán bộ cơ sở, nhưng thực chất để đào tạo các phân đội cơ động có khả năng chiến đấu mạnh ở Thượng Hải để giành thế thượng phong vào giờ G. Khi hay tin Mao Trạch Đông rời Bắc Kinh để tuần du phương Nam ngày 15.8.1971 trên chuyến chuyên xa (xe lửa), Lâm Lập Quả ra lệnh:
Hãy ra tay hạ Mao Trạch Đông tại Thượng Hải trên đường ông ta trở về Bắc Kinh trong chuyến khứ hồi bằng ba cách. Một là dùng súng phun lửa và B40 tấn công chuyên xa. Hai là dùng pháo cao xạ 100 ly chỉa nòng bắn thẳng cho cháy rụi. Ba là Vương Duy Quốc phải mang theo súng ngắn xâm nhập lên chuyên xa bắn chết Mao !.
Đến 10.9.1971, Mao Trạch Đông về tới Thượng Hải lúc 18 giờ 10 phút khi trời vừa chập tối và đêm ấy ở luôn trên chuyên xa, không bước xuống sân ga. Trưa hôm sau 11.9, bằng cách nào Vương Duy Quốc (người được giao nhiệm vụ ám sát) đã bước được lên xe lửa, ngồi vào bàn ăn trước mặt Mao Trạch Đông ?.  (còn nữa)



 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

(Trung Quốc)-Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc ngày nay (kỳ 11)

(TNBĐ) - Nếu Bành Chân xem uy tín Mao Trạch Đông chỉ cao ngang “núi Thái Sơn” thì nguyên soái Lâm Bưu không mấy chốc đã nâng thêm “chiều cao” đó lên tận đỉnh Chomolungma của thế giới và nêu nhận định ngược đời của mình trước 7.000 đại biểu: “bước tiến nhảy vọt và công xã nhân dân là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo” (!)
Kỳ 11: Lâm Bưu cướp diễn đàn “cứu giá“
Các tác giả cuốn “Mười năm cuối đời của Mao Trạch Đông” (sách đã dẫn ở kỳ 8) qua lần gặp đầu tiên đã mô tả Lâm Bưu – danh tướng một thời của Hồng quân Trung Hoa – có “dáng người không cao to, khuôn mặt trắng bệch, từ trên xe bước xuống, đi bộ một vài bước cũng phải có người dìu”. Lần ấy, Diệp Quần - vợ Lâm Bưu - đi theo sau, phân bua: “Tổng tư lệnh Lâm sức khỏe không được tốt, sợ gió, sợ ánh sáng, sợ lạnh, sợ ra mồ hôi”. Suốt 20 năm tiếp đó (1951 - 1971), họ còn gặp Lâm Bưu rất nhiều lần nữa ở Trung Nam Hải, ghi lại: “Mùa đông ngồi trong xe bảo hiểm có khí nóng, mà Lâm Bưu vẫn phải mặc bao ống quần” và cũng phải có người dìu đến phòng trực ban của cảnh vệ để cởi bỏ áo khoác, tháo khăn quàng cổ, cất mũ, sửa sang lại quần áo đầu tóc” rồi mới vào gặp Mao Trạch Đông. Xong việc, Lâm Bưu quay trở ra lấy đồ mặc, mất thời gian hơn người khác, nên “những lần Mao Chủ tịch yêu cầu Lâm Bưu tiếp khách nước ngoài phải chờ đợi ông khá lâu”. Con người bề ngoài yếu ớt, sợ cả “gió và ánh sáng” ấy lại đã “cướp diễn đàn” để giải nguy – “cứu giá” Mao Trạch Đông ít nhất hai lần.
Lần đầu vào tháng 9.1960, sau thất bại nặng nề của “bước tiến nhảy vọt”, lúc Mao Trạch Đông bị đẩy xa vị trí của mình một khoảng  (không chỉ huy sản xuất công nông nghiệp nữa), Lâm Bưu đã triệu tập Hội nghị Quân ủy Trung ương mở rộng, để ra nghị quyết ủng hộ Mao Trạch Đông, xem tư tưởng Mao Trạch Đông “là kim chỉ nam của quân đội và toàn dân Trung Quốc”, chống lại “những người lấn quyền” và “đang khủng hoảng niềm tin vào Mao Chủ tịch” (như nguyên soái Chu Đức và Đặng Tiểu Bình phát biểu: “hoan nghênh Mao thôi chức Chủ tịch đảng”. Chu Ân Lai nhẹ nhàng hơn: “Chủ tịch tạm lui về tuyến hai, Chủ tịch vẫn là chủ tịch”.)
         Lần thứ hai ở “Đại hội 7.000 người”, Lâm Bưu không nhắc gì đến hậu quả của chỉ thị tai hại của Mao Trạch Đông buộc toàn dân phấn đấu tăng sản lượng thép từ 5,35 triệu tấn (1957) lên gấp đôi: 10,7 triệu tấn (vào 1958). Chỉ thị phổ biến tháng 8.1958 lúc chỉ còn 4 tháng nữa là hết năm, không thể nào đủ sức lo liệu thêm 6,2 tấn thép cho đủ sản lượng trên. Nhưng Mao Trạch Đông bất kể quy luật kinh tế và nhất mực buộc phải“kết hợp giữa Các Mác và Tần Thủy Hoàng” để hoàn thành, nếu cần thiết vẫn phải “tháo dỡ các đường sắt tạm thời không có giá trị kinh tế như: đường sắt Ninh Ba, đường sắt Giao Đông” để làm nguyên liệu đúc thép. Vào cuộc, Nhân dân nhật báođăng bản tin “hoang tưởng”: tỉnh Hà Nam chỉ trong vòng 5 ngày (từ 10 đến 15.9) đã nâng số lượng lò luyện gang trong tỉnh lên 45.000 cái, huy động 3,6 triệu nông dân với 407.000 xe vận tải các loại, để mỗi ngày sản xuất 18.693 tấn gang. Thủ tướng Chu Ân Lai tiến hành thẩm định mới biết đó là “thành tích ảo”. Những “kỳ tích” tưởng tượng với hàng loạt con số sản lượng phóng lên đến “tận cung trăng” tương tự như Hà Nam, dẫn đến công bố của Tân Hoa Xã: sản xuất 11,08 triệu tấn thép trong năm ấy (tăng hơn mong muốn của Mao Trạch Đông) và 13,69 triệu tấn gang! (tài liệu sau này cho biếttrong đó có 3,08 triệu tấn thép và 4,16 triệu tấn gang phế phẩm, hoàn toàn không thể gia công sử dụng. Giá thị trường một tấn gang lúc đó là 150 nhân dân tệ (NDT), gang làm ra theo phương pháp thủ công phải cõng giá thành lên 315 NDT, nhà nước phải trợ giá 5 tỷ NDT cho “thắng lợi tinh thần” của việc ồ ạt làm gang thép ấy!”. Dầu Lâm Bưu không nhắc đến, song các đại biểu vẫn bàn tán về những tổn thất liên quan qua “đại hội 7.000 người” tháng 1.1962.
Vào thời điểm đó, Lưu Thiếu Kỳ vẫn còn trên đỉnh cao quyền lực (được Mao Trạch Đông giới thiệu với nguyên soái Anh Mongtgomery: “Khi tôi chết, ông ta sẽ lên thay”) – trên diễn đàn “đại hội 7.000 người”, vào phiên họp toàn thể ngày 27.1, thẳng thắn phân tích nguyên nhân dẫn đến thảm họa trong đại nạn “công xã nhân dân”, “nhà bếp tập thể”  và “ảo ảnh công nghệ thép” là do:
-        3 phần thiên tai, 7 phần nhân họa.
Lưu Thiếu Kỳ muốn nói Mao Trạch Đông phải gánh 70% trách nhiệm, cả hội trường vỗ tay hoan nghênh, tất nhiên không khỏi làm Mao Trạch Đông căm tức. Nhật ký của Đặng Dĩnh Siêu (vợ Chu Ân Lai) ghi rằng, cũng tại đại hội trên: “nhiều người yêu cầu Mao Trạch Đông rút lui”. Đang lúc Mao Trạch Đông bị bao vây, đơn độc, Lâm Bưu xuất hiện đúng lúc mang đến cho Chủ tịch của mình “vòng hào quang mới”, với khẳng định:“đường lối chung, cũng như bước tiến nhảy vọt và công xã nhân dân là đúng đắn, sáng tạo, những khó khăn vấp phải là do không làm theo chỉ thị của Mao” (!). Lâm Bưu dứt lời, Mao Trạch Đông đứng dậy vỗ tay, Lưu Thiếu Kỳ và Thường vụ Bộ chính trị ngần ngừ một lát mới đứng lên “vỗ tay theo” – 7.000 đại biểu tuy “gật đầu” nhưng “không chấp thuận”, nên ai đó trương khẩu hiệu: “Đả đảo Mao Trạch Đông!” trong hội trường ngay sau buổi đó…  (còn nữa)

 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015

Vụ thảm sát tại Mỹ Lai (Việt Nam) ngày 18/3/1968



(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2015

Thuyền trưởng tầu HQ-505 nhớ lại trận chiến Trường Sa 1988



(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Ba, 10 tháng 3, 2015

(Tin BĐ)- Lại nói về công thư của Ông Phạm Văn Đồng:

(TNBĐ) - Về cái gọi là ông Phạm Văn Đồng đã chối bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa


Thực hư về cái gọi là ông Phạm Văn Đồng đã chối bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Trong những năm gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Một trong những lý do thường được Trung Quốc viện dẫn để biện hộ cho yêu sách trên là ngày 14 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Bắc Việt Nam đã gửi công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai xác nhận chủ quyền Trung quốc đối với hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa.
Thiết nghĩ, để tìm lời giải khách quan cho vấn đề này không thể không làm rõ thực chất nội dung công hàm của Phạm Văn Đồng là gì? Tuyên bố của Chu Ân Lai và Công hàm của Phạm Văn Đồng được ra đời trong bối cảnh như thế nào.
Nội dung tuyên bố của Chu Ân Lai và công hàm của Phạm Văn Đồng:
Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958 Chu Ân Lai, Thủ tướng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Hoa Lục, gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).
Sau đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi công hàm đích danh cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:
“Thưa đồng chí Tổng lý
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”.
Qua lời lẽ công hàm của Phạm Văn Đồng có thể thấy rằng Phạm Văn Đồng đã gởi công hàm cho Chu Ân Lai liên quan đến tuyên bố của ông ta về lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Tuy nhiên, không thể giải thích rằng Phạm Văn Đồng đã chối bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, càng không thể xuyên tạc là Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo đó.

Thực chất nội dung công hàm của Phạm Văn Đồng và bối cảnh ra đời của công hàm :
Công hàm nêu trên của Phạm Văn Đồng có hai nội dung hết sức đơn giản và rõ ràng, đó là ông Phạm Văn Đồng ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý và chỉ thị cho các cơ quan Việt Nam tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.
Trong công hàm của ông Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Chu Ân Lai đã nêu.
Do vậy, chỉ xét về câu chữ thôi cũng dễ dàng nhận thấy rằng mọi suy diễn cho rằng ông Phạm Văn Đồng đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc và không có cơ sở pháp lý.  
Liên quan đến vấn đề này, một luật gia có tiếng người Pháp, bà Monique Chemillier Gendreau, tác giả cuốn sách “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” đã vô tư và công bằng nhận định rằng “Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng chỉ có một nghĩa hẹp, đúng vậy, là công nhận bề rộng lãnh hải của Trung Quốc. Do vậy, thật không đúng khi lập luận rằng Việt Nam có lẽ đã  khẳng định lại sự công nhận của họ đối với yêu sách của Trung Quốc đối với các quần đảo trên”.
Tính chất phiến diện của những suy diễn tương tự như trên càng bộc lộ rõ nét hơn khi đi sâu phân tích những luận chứng pháp lý sau đây:
Một là, Việt Nam luôn coi vấn đề biên giới lãnh thổ, chủ quyền quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Theo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đây là một vấn đề hệ trọng, có tính đại sự quốc gia, chỉ có Quốc hội mới có toàn quyền quyết định. Mọi quan chức và cơ quan, dù ở cấp cao cũng không có thẩm quyền quyết định về biên giới lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Về thủ tục pháp lý, những quyết định tương tự như vậy của bất kỳ quan chức nào hay cơ quan nào, nếu có, đều phải trải qua thủ tục xem xét thông qua của Quốc hội Việt Nam thì mới có hiệu lực pháp lý.
Sự thực là công hàm nêu trên của Phạm Văn Đồng không được đưa ra để Quốc hội Việt Nam xem xét thông qua. Cho tới nay Trung Quốc cũng không đưa ra được bất kỳ chứng cứ gì minh chứng là Công hàm của Phạm Văn Đồng đã được Quốc hội Việt Nam thông qua. Vì vậy, mọi nguỵ tạo nhằm coi công hàm của Phạm Văn Đồng là một bằng chứng về việc Việt nam đã từ bỏ chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa  sẽ vô hình dung làm cho công hàm đó trở thành một việc làm “vi hiến”, hoàn toàn không có giá trị ràng buộc pháp lý.
Hai là, về mặt pháp lý, vào thời điểm Phạm Văn Đồng gởi công hàm nêu trên cho Chu Ân Lai, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc thẩm quyền quản lý thực tế của chính quyền Sài Gòn. Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 chia cắt hai miền Nam, Bắc Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời. Theo Hiệp định này, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Lúc đó, chính quyền Việt Nam Cộng hoà lãnh trách nhiệm quản lý lãnh thổ phía Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 và đã tiếp quản hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1956 khi Pháp rút khỏi Đông Dương. Từ đó, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đã tổ chức hai quần đảo về mặt hành chính, tổ chức khảo sát, khai thác tài nguyên và bảo vệ hai quần đảo này, chống lại những hành động và ý đồ xâm chiếm của các nước khác đối với hai quần đảo. Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam cũng đã tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Từ những phân tích thời điểm thực tế liên quan, bà Monique Chemillier Gendreau, tác giả cuốn sách “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” đã trích dẫn nêu trên cho rằng “Trong bối cảnh đó, các tuyên bố hay các lần biểu thị lập trường có thể có của nhà chức trách Bắc Việt Nam không có hậu quả đối với danh nghĩa chủ quyền. Đó không phải là chính phủ về mặt lãnh thổ có thẩm quyền đối với các quần đảo. Người ta không thể từ bỏ cái mà người ta không có thẩm quyền”.
Ba là, cho tới nay, Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không có bất kỳ tuyên bố nào về cái gọi là công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo đó.
Bốn là, khi Việt Nam thực hiện quyền thừa kế của mình, đưa quân ra truy quét lực lượng của miền Nam Cộng hòa, giải phóng quần đảo Trường Sa trong tháng 4 năm 1975 đã không có bắt kỳ nước nào, kể cả Trung Quốc lên tiếng phản đối. Ngược lại, Trung Quốc và nhiều nước khác đã phấn khởi chúc mừng thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam.
Những phân tích nêu trên cho thấy Tiến sĩ Balazs Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á đã có lý khi phát biểu trên chương trình phát thanh của đài BBC cho rằng công hàm của Phạm Văn Đông “không có sức nặng ràng buộc pháp lý”.
Năm là, Tuyên bố của Chu Ân Lai và công hàm trả lời của Phạm Văn Đồng diễn ra trong bối cảnh cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam Việt Nam đang diễn ra ngày càng khốc liệt, Bắc Việt đang gặp muôn vàn khó khăn. Trong bối cảnh đó, Bắc Việt trông chờ rất nhiều vào sự viện trợ khí tài quân sự của anh cả Nga Sô và viện trợ hậu cần của anh hai Trung cộng. Điều không thể không làm Bắc Việt bận tâm là phần lớn viện trợ khí tài quận sự của Nga Sô đều phải hành trình qua lảnh thổ Trung Cộng trước khi đến tay binh sỹ Bắc Việt. Thực tế này đã tạo cho Trung Cộng lợi thế trong quan hệ với cả Nga Sô và Bắc Việt, buộc Bắc Việt phải cân nhắc trước mọi động thái của mình đối với Trung Cộng.
Có thể nêu thêm một yếu tố không kém phần quan trọng góp phần dẫn đến Tuyên bố của Chu Ân Lai và Công hàm của Phạm Văn Đồng, đó là vào thời điểm này Hội nghị của Liên hợp quốc về luật biển lần thứ nhất đang diễn ra và tranh cãi kịch liệt về chiều rộng của lãnh hải. Xu hướng các quốc gia ven biển muốn mở rộng lãnh hải và các vùng biển nằm dưới quyền tài phán quốc gia đang dần dần thắng thế. Một số nước Mỹ La Tinh thậm chí còn mở rộng lãnh hải ra đến 200 hải lý, tính từ đường cơ sở. Mặc dù không phải là một thành viên của Liên hợp quốc, Trung Quốc cũng muốn nhân dịp này để mở rộng vùng lãnh hải hướng ra biển như một số nước ven biển đã làm. Về phần mình, trước nguy cơ Mỹ leo thang chiến tranh, đe dọa phong tỏa các vùng biển của miền Bắc, Bắc Việt cũng nhận thấy việc mở rộng lãnh hải ra đến 12 hải lý sẽ có cơ sở đẩy xa thách thức của hải quân Mỹ.
Tận dụng bối cảnh lịch sử đó Trung quốc đã cố ý dùng kế “nhất cử, lưỡng tiện” nhằm mập mờ, đánh lận con đen khi tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc (phù hợp với xu thế chung, dễ nhận được sự ủng hộ của các nước) và nèo thêm bao gồm các quần đảo (lờ đi yêu sách chủ quyền nhằm đánh lạc hướng chú ý của các nước).
Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên có thể hiểu được vì sao Phạm Văn Đồng đã chọn cách chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc (lờ đi nội dung mập mờ, hòng đánh lận con đen trong tuyên bố của Chu Ân Lai liên quan đến các quần đảo) để trả lời Chu Ân Lai. Về thực chất, công hàm của Phạm Văn Đồng chỉ là sự thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc mà thôi. Phạm Văn Đồng không thể dễ dàng từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông ta và cả dân tộc Việt Nam chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do.  
Nhận xét :
Việc Trung Quốc diễn giải nội dung công hàm của Phạm Văn Đồng ngày 14 tháng 9 năm 1958 như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam và luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Giải thích xuyên tạc công hàm của Phạm Văn Đồng là một việc làm có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa chủ quyền của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Về thực chất, công hàm của Phạm Văn Đồng chỉ là sự thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc mà thôi. Nếu coi đây là một nhượng bộ về chủ quyền lãnh thổ thì hoàn toàn không có cơ sở pháp lý vì Công hàm này không được Quốc hội Việt Nam thông qua, do đó công hàm này sẽ bị coi là một việc làm “vi hiến”, hoàn toàn không có giá trị ràng buộc pháp lý; vì khi đó hai quần đảo nêu trên đang thuộc thẩm quyền quản lý của chính quyền Việt Nam cộng hòa; vì năm 1975 Việt Nam đã giải phóng quần đảo Trường Sa và được nhiều nước, trong đó có Trung Quốc thừa nhận và chúc mừng.
Sự suy diễn phiến diện và vô căn cứ nêu trên Trung Quốc không thể làm lu mờ được sự thật là: hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đời đã thuộc về Việt Nam. Các triều đại phong kiến và các chính thể kế tiếp nhau của Việt Nam luôn chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với hai quần đảo này một cách hữu hiệu và hòa bình; chưa hề có bất cứ phát biểu chính thức cũng như văn bản công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa./.

 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Năm, 5 tháng 3, 2015

(Tin BĐ)- Yêu cầu Trung Quốc chấm dứt các hoạt động sai trái ở Biển Đông

(TNBĐ) - Việt Nam phản đối Trung Quốc xây dựng các công trình trái phép trên các bãi, đá, và làm thay đổi nguyên trạng tại khu vực Quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng cho biết Việt Nam phản đối và yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay những hành động sai trái này.
“Quan điểm của Việt Nam về việc này là rõ ràng và nhất quán. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng pháp lý và lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa,” Phó Phát ngôn Phạm Thu Hằng nói tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao chiều 5-3 tại Hà Nội.
“Việc Trung Quốc xây dựng các công trình trái phép trên các bãi, đá, và làm thay đổi nguyên trạng tại khu vực Quần đảo Trường Sa không những đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam mà còn vi phạm Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc ký kết với ASEAN,” Phó Phát ngôn khẳng định.




 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

Việt Nam huấn luyện chiếm đảo



(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Hải quân Việt Nam trang bị tên lửa EXTRA và UAV Orbiter 2 của Israel

(TNBĐ) - Trang tin quân sự bmpd.livejournal của Nga ngày 28.11 cho biết loại tên lửa bờ biển EXTRA và máy bay không người lái Orbiter 2 của Israel được trang bị cho Đoàn 685, Vùng 4 Hải quân Việt Nam, qua phóng sự bắn thử tên lửa vừa phát trên kênh truyền hình Quốc phòng Việt Nam.

Qua phóng sự truyền hình này (phát ngày 26.11), trang tin bmpd nhận định đây là loại tên lửa EXTRA do tập đoàn IMI của Israel sản xuất, thường được trang bị trên các giàn phóng tên lửa hàng loạt Lynx (pháo phản lực). EXTRA là loại tên lửa có thiết bị dẫn đường (thường là GPS), tầm bắn xa 150 km, đầu đạn 300 mm, nặng 120 kg, độ chính xác cao (chỉ lệch mục tiêu trong khoảng 10 m).




Trong phóng sự truyền hình nói trên có cảnh các chiến sĩ Đoàn 685 lắp ráp và triển khai UAV loại Orbital 2. Đây là máy bay của Israel, do hãng ADS (Israel) sản xuất. Loại máy bay này dùng trinh sát mục tiêu và hướng dẫn hỏa lực nhắm bắn chính xác.
Loại UAV cực nhỏ này (dài chỉ 1 m, sải cánh 3 m, nặng 10 kg, bay cao 500 - 600 m, tối đa 3.200 m và bán kính hoạt động 80 km, liên tục 4 giờ) khi hoạt động hầu như không thể nhìn thấy vì quá nhỏ, thậm chí radar cũng không phân biệt được nó với 1 con chim.
Orbiter 2 phóng đi bằng một giàn phóng, và quay về đáp xuống bằng dù. Hãng chế tạo Orbiter là ADS cho biết loại UAV này còn có thể mang được tên lửa chống tăng Spike (cũng của Israel).
Nhiều nước đang sử dụng Orbiter 2 như Anh, Mỹ, Mexico, Phần Lan… để tuần tra biên giới và lãnh hải. Giá thành của loại UAV mini này chưa tới 1 triệu USD/chiếc.
Theo bmpd, trước đây có nhiều nguồn tin cho biết Việt Nam muốn mua loại tên lửa dẫn đường có độ chính xác cao này của Israel cùng UAV, đến nay người ta mới thấy được tên lửa EXTRA và UAV Orbital 2 đã có mặt trong trang bị của lực lượng phòng thủ bờ biển Việt Nam.
Tên lửa EXTRA (Extended Range Artillery, pháo tầm xa) do hai hãng IMI và IAI của Israel hợp tác sản xuất từ năm 2007, dài 3,97 m, đường kính 306 mm, nặng 450 kg, mang đầu đạn nặng tối đa 120 kg, tầm bắn tối đa 150 km. Tên lửa được dẫn đường bằng hệ thống định vị vệ tinh GPS. Israel trước đó đã xuất khẩu tên lửa này sang Kazakhstan và Azerbaijan.
Trước đó, một bản tin của Reuters phát ngày 9.1.2012 cho biết tập đoàn IAI của Israel đang xúc tiến hợp đồng bán vũ khí trị giá 1,1 tỉ USD "cho một nước châu Á" trong vòng 4 năm. Hợp đồng này bao gồm máy bay, tên lửa và công nghệ trinh sát. Trước đó IAI đã bán cho Hải quân Ấn Độ hệ thống chống máy bay trị giá 1,1 tỉ USD vào năm 2009.
Xem clip phóng sự trên kênh Quốc phòng Việt Nam về Đoàn 685 thực hành bắn tên lửa bờ biển EXTRA:


 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Loading...