(TNBĐ) - Trung Quốc là tác nhân chính trong việc gây ra căng thẳng trên biển Đông, nhưng phía Trung Quốc lại luôn hô hào tự nhận mình là “nạn nhân” và ra sức cáo buộc các quốc gia khác...
Sáng nay 20.6, tại TP Đà Nẵng đã khai mạc Hội thảo quốc tế “Hoàng Sa - Trường Sa: Sự thật lịch sử”, do đại học Đà Nẵng và đại học Phạm Văn Đồng phối hợp tổ chức. Hội thảo diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc leo thang căng thẳng trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam.
Phát biểu tại lễ khai mạc, PGS.TS Phạm Đăng Phước, hiệu trưởng đại học Phạm Văn Đồng cho biết: “Hội thảo quốc tế Hoàng Sa - Trường Sa: Sự thật lịch sử lần này cho thấy chủ đề đang tiếp tục nhận được sự quan tâm của đông đảo học giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước; đồng thời thể hiện các ý kiến đóng góp đối với xu thế chung của Đông Nam Á và thế giới đều hướng tới sự phát triển hòa bình, ổn định và thịnh vượng chung trên biển Đông.
“Hành động của Trung Quốc là một bước leo thang mới vi phạm luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, làm thay đổi nguyên trạng ở biển Đông, vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông”, PGS.TS Phạm Đăng Phước nhấn mạnh.
Bằng những chứng cứ, tư liệu lịch sử, khoa học... GS. Carlyle A. Thayer, nguyên GS Học viện Quốc phòng Úc, chuyên gia về Việt Nam và Đông Nam Á khẳng định: Nếu chúng ta tính từ lịch sử xa xưa tới thế kỷ 17 và thế kỷ 18, rõ ràng thấy rằng Việt Nam có cơ sở đáng kể về yêu sách của mình đối với quần đảo Hoàng Sa. Trong thế kỷ 17, chúa Nguyễn đã ra lệnh cho các quan chức trong triều thu nạp thủy thủ cho từ 5 đến 18 thuyền, tạo nên đội Hoàng sa. Đội Hoàng Sa hoạt động ở quần đảo Hoàng sa khoảng 5 tháng để đánh cá, vẽ bản đồ, khảo sát và lấy hàng hóa từ các tàu buôn bị chìm.
Các vị vua triều Nguyễn tiếp tục duy trì đội Hoàng Sa. Vua Gia Long đã chính thức chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa từ năm 1816. Dưới thời của người kế vị, vua Minh Mạng, đội Hoàng Sa lại tiếp tục khảo sát và vẽ bản đồ quần đảo, xây dựng một miếu thờ năm 1835, dựng một bia đá khắc lên yêu sách lãnh thổ của vương quốc An Nam...
Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneva 1954 đã tạm thời chia cắt Việt Nam thành hai khu vực dọc theo vĩ tuyến 17. Quần đảo Hoàng Sa nằm dưới vĩ tuyến này do vậy nó thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa. Năm 1956, Việt Nam Cộng hòa phản đối sự chiếm đóng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với các đảo thuộc nhóm An Vĩnh.
Cũng năm đó, Việt Nam Cộng hòa thay thế các lực lượng Pháp trên quần đảo Hoàng sa, Bộ Khai khoáng khoa học và Công nghiệp nhỏ tiến hành một cuộc khảo sát đối với 4 đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa. Quả quyết của Bateman là không có chuyện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa năm 1958.
Bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc không đề cập tới quần đảo Hoàng Sa (hay là quần đảo Trường Sa), cũng như không hề thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa...