Báo
Le Monde ngày 23/6 đã đăng
trên
trang nhất
phóng sự
"Rượt đuổi ở
Hoàng Sa" của
phóng viên Bruno Laymond Philip sau chuyến đi
thực địa Hoàng Sa trên tàu thực thi pháp luật
Việt Nam cùng các nhà báo quốc tế khác để tận mắt chứng
kiến tình hình trên biển.
Bài viết phản ánh khách quan tình hình liên quan đến khu vực
Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương - 981 (Haiyang Shiyou 981), giúp dư luận Pháp và châu Âu hiểu rõ các hành động vi
phạm nghiêm trọng
Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982 của
Trung Quốc và cách ứng xử đúng mực của Việt Nam.
RƯỢT ĐUỔI Ở HOÀNG SA
Việc
hạ đặt giàn khoan Trung Quốc tại Hoàng Sa mà cả hai bên cùng đòi chủ quyền
đang làm sống dậy các mối căng thẳng.
Cách
xa khoảng chục hải lý, giàn khoan Trung Quốc chỉ là một vết nhỏ hiện lên chân
trời, hơi khó nhìn trên Biển Đông dậy sóng. Hôm nay là ngày 14/6, 8 giờ sáng.
Con
tàu trắng-xanh của cảnh sát biển Việt Nam rẽ sóng hướng thẳng phía các con
tàu đầu tiên của Trung Quốc. Với số lượng khoảng ba chục, các tàu Trung Quốc
hình thành một vòng cung bảo vệ trước giàn khoan mà Bắc Kinh vừa hạ đặt trái
phép tại vùng biển tranh chấp ở Hoàng Sa ngoài khơi bờ biển Việt Nam.
Tiếng
loa phóng thanh trên tàu chấp pháp Việt Nam bất chợt cất lên bằng các thứ tiếng
Việt, Trung và Anh: "Tất cả các tàu thuyền nước ngoài chú ý, đây là vùng
biển thuộc Việt Nam và các vị ở đây là vi phạm công ước 1982 về luật biển và
chủ quyền của Việt Nam. Yêu cầu các vị ngừng ngay các hoạt động và rút khỏi
đây!"
Quyết
định của CNOOC, công ty dầu khí lớn thứ 3 của chính phủ Trung Quốc, đưa giàn
khoan vào vùng biển này ngày 2/5 đã khiến quan hệ giữa hai nước leo thang
căng thẳng dữ dội.
Bị Trung Quốc chiếm đóng từ
năm 1974
Kể từ
khi giữa hai nước xảy ra cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngủi nhưng đẫm máu
năm 1979, rồi một cuộc hải chiến tang tóc ở phía nam vùng biển này năm 1988,
quan hệ Việt-Trung chưa bao giờ căng thẳng như bây giờ.
Người
Trung Quốc chiếm giữ Hoàng Sa bằng cuộc đổ bộ vào đây năm 1974, sau khi đánh
đuổi các lực lượng đồn trú của Việt Nam. Trước đó, và hầu như đến giai đoạn
cuối của chiến tranh Đông Dương, Hoàng Sa luôn nằm dưới quyền kiểm soát của
chế độ Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Hà Nội luôn khẳng định Việt Nam sở hữu các
hòn đảo Hoàng Sa từ lâu và quả quyết rằng Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý để
chứng minh điều này. Trung Quốc không muốn nghe nhắc tới luật pháp quốc tế,
mà chỉ đơn giản yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ vùng biển mang tên Trung
Hoa và bác bỏ đây là một vùng biển tranh chấp.
Tàu
VN giờ đây đã tiến rất gần hai tàu tuần duyên Trung Quốc, đến mức người ta có
thể phân biệt rõ ràng các cấu trúc, màu trắng đỏ và biển số của chúng: 2101
và 32 101. Vị thuyền trưởng tàu Việt Nam ra lệnh bẻ mạnh lái sang mạn trái và
một cuộc rượt đuổi lập tức diễn ra. Chẳng cần đợi quá lâu, hai tàu Trung Quốc
lập tức rượt đuổi chúng tôi. Các con tàu xông tới, hung hăng, rồ máy chạy hết
tốc lực.
Vũ điệu cảm giác mạnh trên
biển
Được
một lúc, sau một lần tàu bẻ lái gấp hơn, chúng tôi ở tình thế chạy song song
và ngược hướng với một tàu Trung Quốc. Gần tới điểm nhìn thấy các thủy thủ
Trung Quốc đang thao tác phía trước. Họ đang nghĩ gì? Chắc hẳn họ phải nhìn
thấy trên boong tàu thực thi pháp luật Việt Nam có nhiều nhà báo nước ngoài,
với những chiếc máy quay và máy ảnh đang chĩa tới sẵn sàng cho vũ điệu cảm
giác mạnh trên biển. Các nhà báo này đã được chính quyền Việt Nam mời đi thực
địa để có những đánh giá chân thực và chính xác tình hình.
Vài
ngày sau tại Hà Nội, cựu đại biểu quốc hội và nguyên đại sứ Việt Nam tại Liên
minh châu Âu Tôn Nữ Thị Ninh đã có những phân tích. Theo bà, vụ việc là rất
nghiêm trọng và không bó hẹp ở mối đe dọa đối với Việt Nam: "Chúng ta
đang chứng kiến Trung Quốc mưu toan áp đặt khái niệm 'thái bình dưới trướng
thiên triều,' coi thường luật pháp quốc tế và bộc lộ bản chất ngạo mạn xấu
xa." Bà Ninh kết luận bằng một cảnh báo: "Trung Quốc muốn khẳng định
quyền bá chủ, muốn đóng vai trò sen đầm và trở thành cảnh sát trưởng ở Á
Đông. Các mưu toan của họ là vấn đề đối với tất cả các nước trong khu vực
cũng như với nguyên tắc tự do giao thương trên biển!"
Tất
nhiên tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam không phải mới phát sinh. Hai nước
cùng chia sẻ một lịch sử hàng nghìn năm: Việt Nam từng chịu sự đô hộ của đế
quốc Trung Hoa từ năm 111 trước Công nguyên đến năm 938. Liên quan đến yêu
sách chủ quyền lãnh thổ hiện nay ở Biển Đông, cả Trung Quốc và Việt Nam đều
khẳng định dựa trên các bản đồ hàng hải trước đây và các bằng chứng lịch sử.
Theo
nhà sử học Việt Nam Trần Đức Anh Sơn, quyền sở hữu quần đảo Hoàng Sa của Việt
Nam có từ thời vua Gia Long, người đã "buộc các ngư dân phải đóng thuế từ
năm 1816". "Hạm đội triều Nguyễn thường đứng ra cứu giúp các tàu bị
lạc đường trên biển." Quần đảo mà người Việt Nam gọi là Hoàng Sa là một
tập hợp khoảng ba chục hòn đảo và bãi đá, trong đó chỉ có khoảng một nửa là
những hòn đảo "thực sự".
Các tàu Trung Quốc "bị
đâm húc" 1.547 lần kể từ ngày 2/5
Trong
những năm 1920, thực dân Pháp tại Việt Nam đã phát triển Hoàng Sa, đặc biệt
đã xây dựng một trụ hải đăng và một trạm phát sóng không dây (TSF) trên đảo
"Hoàng Sa" (Pattle Island), và một trạm khí tượng trên một hòn đảo
khác có tên là "Đảo Cây".
Ngày
2/5, theo ngôn từ trong thông cáo của Việt Nam, Trung Quốc đã "đơn
phương hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 cách bờ biển Việt Nam 130 hải lý, nằm
sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam hơn 80 hải
lý". Về phần mình, Trung Quốc chỉ đơn giản khẳng định giàn khoan nằm
"trong lãnh hải của Trung Quốc"…
Trung
Quốc không chỉ yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa, mà cả Trường Sa nằm xa
hơn về phía Nam. Quần đảo Trường Sa có một phần thuộc quyền kiểm soát của Việt
Nam, nhưng cũng là đối tượng yêu sách chủ quyền của Philippines, Malaysia,
Brunei và Đài Loan… Điều này cho dư luận hiểu tính phức tạp của các yêu sách
biển đảo ở một khu vực có thể giàu trữ lượng chất đốt, nhưng có vẻ trước hết
vẫn là các lợi ích chiến lược. Đó là chưa kể các vấn đề chủ quyền luôn khích
lệ niềm tự hào dân tộc của các bên có sự hiện diện.
Tuần
trước, Bắc Kinh đã buộc tội các tàu thuyền Việt Nam "đâm húc" các
tàu Trung Quốc 1.547 lần kể từ ngày 2/5. Việt Nam đã bác bỏ cáo buộc phóng đại
này và đáp lại bằng việc phát hành các đoạn video cho thấy phía Trung Quốc sử
dụng súng bắn nước tấn công các tàu chấp pháp Việt Nam. Cũng có một cuốn phim
cho thấy ngày 26/5, một tàu cá cỡ lớn đã rượt đuổi và húc chìm một tàu kéo lưới
Việt Nam, khiến các ngư dân trên tàu suýt chết.
Ngày
14/6, cuộc rượt đuổi đã không diễn ra mãi. Không có vụ đâm húc và tấn công bằng
súng nước nào từ các thủy thủ của "Thiên Đế". 8h30, lần này tất cả
kết thúc mà không có va chạm: người Trung Quốc đã bỏ cuộc theo đuổi tàu Việt
Nam và trở lại vị trí ban đầu.
Trong
buồng hoa tiêu, chỉ huy Nguyễn Văn Tân, một trong người phụ trách của
"khu vực số 2" của lực lượng cảnh sát biển, lưu ý: "Họ cố ép
chúng tôi trong gọng kìm. Rõ ràng là họ muốn đẩy chúng tôi phạm sai lầm, trước
hết là phản ứng bạo lực. Nhưng chúng tôi sẽ không làm như vậy: chúng tôi đã
quyết định áp dụng chiến lược thận trọng."
Sẵn
sàng chỉ ra bản chất hăm dọa từ hành động của Trung Quốc đáp trả việc Việt
Nam cảnh báo bằng loa phóng thanh, các thủy thủ Việt Nam nhấn mạnh rằng những
kẻ trước mặt họ chính là những kẻ xâm lược: các lực lượng tuần duyên Trung Quốc
đi tuần với các súng máy 12,7 mm và đại bác 20 mm bỏ nắp. Một thực tế trái
ngược với các đồng nhiệm người Việt Nam. Trung Quốc sử dụng ngày càng nhiều hải
quân chiến tranh - điều mà trước đây vài ngày Bắc Kinh vẫn phủ nhận. Nhưng đó
là sự thật: ngày 14/6, chúng tôi đã được chứng kiến cách chỗ chúng tôi vài sải
cáp là một tàu hộ tống đang lặng lẽ tiến qua với một màu xám hòa lẫn với màu
biển cả.
Ngày
hôm sau, Lê Trung Thành, chỉ huy chiếc tàu nhỏ chở chúng tôi, đã chỉ cho các
nhà báo thấy trên màn hình video bóng dáng một tàu chiến khác của hải quân
Trung Quốc và cho biết "đó là tàu vớt mìn". Một ngày bình thường trên
Biển Đông.
Bruno Laymond Philip (Hoàng Sa, đặc phái viên)
|