Thực chất cái gọi là “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc ở Hoàng Sa- Bài 1.
Để
chứng minh sự quản lý của Trung Quốc trên các đảo này từ hàng nghìn năm, Bộ
Ngoại giao Trung Quốc đưa ra ba sự kiện.
Căn cứ luật
pháp quốc tế về quyền thụ đắc lãnh thổ, lập luận "chủ quyền lịch sử"
của Trung Quốc liệu có đứng vững được không?
|
Ảnh chụp từ bộ Atlas thế giới Bruxelles – 1827 khẳng định cực Nam của Trung Quốc giới hạn ở đảo Hải Nam. |
Bất chấp dư
luận quốc tế, bất chấp những nỗ lực ngoại giao của Việt Nam, Trung Quốc vẫn
không rút giàn khoan Hải Dương 981 hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa của Việt Nam. Hơn 1 tháng nay, Trung Quốc ngang ngược sử
dụng vũ lực tấn công các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam đang làm nhiệm vụ
trên biển và tàu cá của ngư dân Việt Nam.
Ngày 8/6, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại
công bố tài liệu biện minh cho yêu sách “chủ quyền” của nước này đối với quần
đảo Hoàng Sa, biện hộ cho hoạt động phi pháp của giàn khoan Hải Dương 981 trong
thềm lục địa của Việt Nam. Mặc dù lớn tiếng khẳng định chủ quyền với cái gọi là
Tây Sa (mà thực chất là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) nhưng Trung Quốc không
đưa ra được chứng cứ thuyết phục nào. Giới lãnh đạo Trung Quốc cũng như các học
giả nước này luôn né tránh hoặc giải thích quanh co khi được yêu cầu làm rõ về
chủ quyền mà Trung Quốc đã tuyên bố. Trong khi đó, Việt Nam có đầy đủ những
bằng chứng pháp lý cũng như lịch sử để chứng minh chủ quyền đối với quần đảo
Hoàng Sa.
Để làm rõ những chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý
về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, Nhóm phóng viên Đài TNVN thường trú khu
vực Miền Trung thực hiện loạt bài “Hoàng Sa muôn đời của Việt Nam”.
Bài 1: Trung Quốc ngụy biện về chủ quyền " Tây
Sa"
Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với quần đảo “Tây
Sa”, tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, theo nguyên tắc “chủ quyền lịch
sử”. Lập luận của nước này là: Người Trung Quốc đã phát hiện ra các đảo này sớm
nhất và đã đặt tên cho chúng; Ngư dân Trung Quốc đã khai thác các đảo này từ
hàng nghìn năm nay. Điều đó chứng minh chủ quyền của Trung Quốc; Trung Quốc đã
thực hiện các hành động cai quản ở quần đảo này từ lâu đời…
Căn cứ nguyên tắc của
luật pháp quốc tế về quyền thụ đắc lãnh thổ cho đến nửa cuối thế kỷ XIX, lập
luận này của Trung Quốc liệu có đứng vững được không?
Từ cuối thế kỷ XV, luật quốc tế công nhận
các hành vi tượng trưng của việc sáp nhập lãnh thổ do quốc gia phát hiện ra
thực hiện như là danh nghĩa nguyên thủy của việc chiếm hữu. Nhưng phát hiện với
ý định sở hữu là chưa đủ để tạo ra quyền sở hữu đối với lãnh thổ vô chủ cho
quốc gia phát hiện. Yếu tố tinh thần này phải được củng cố bằng yếu tố vật chất
qua việc chiếm hữu thực sự, hiệu quả và quản lý hành chính trong một thời gian
hợp lý, mà độ dài phụ thuộc vào hai yêu cầu: một là, sự khẳng định quyền lực
trong vùng đó đối với không chỉ các chủ thể trong nước mà cả với các chủ thể
ngoài nước; hai là, không có tranh chấp từ phía quốc gia khác. Tóm lại, quốc
gia đó cần phải chứng minh được rằng, việc chiếm hữu là rõ ràng, hòa bình, liên
tục và không có tranh cãi.
Đáng chú ý, riêng
quyền phát hiện không được coi là đủ để đảm bảo quyền chiếm hữu xác định. Nó
phải được củng cố bằng sự chiếm cứ thực sự do Nhà nước thực hiện. Việc một cá
nhân hoặc nhiều cá nhân là công dân của một nước thực hiện hành vi chiếm hữu
với tư cách cá nhân sẽ không tạo ra một danh nghĩa chủ quyền cho Nhà nước đó.
|
Ảnh chụp lại |
Về danh nghĩa lịch sử hay quyền phát hiện, Sách trắng của Bộ Ngoại giao Trung Quốc
ngày 30 tháng 1 năm 1980 với nhan đề Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa
và Nam Sa khẳng định: “Từ thời Hán Vũ đế trước Công lịch hai thế kỷ, nhân dân Trung Quốc
đã bắt đầu đi lại trên biển Nam. Trải qua thực tiễn hàng hải lâu dài, nhân dân
Trung Quốc đã lần lượt phát hiện các quần đảo Tây Sa và Nam Sa ”.
Để chứng minh danh nghĩa lịch sử của họ, phía Trung Quốc đã dựa trên những cuốn
sách chính như: Nam châu dị vật chí; Vũ kinh
tổng yếu; Mộng Lương Lục; Đảo di chí lược; Đông Tây dương khảo; Độc sử phương
dư kỷ yếu,…
Tuy nhiên, các
sách này hoàn toàn không phải là các chính sử do các cơ quan của Nhà nước Trung
Quốc ấn hành. Không phải là những phát hiện với ý định sở hữu, nguồn tài liệu
này đều là các chuyên khảo, tài liệu địa dư hoặc các sách hàng hải do các nhà
địa lý hoặc nhà hàng hải chép về các chuyến đi, mô tả về các lãnh thổ, thể hiện
những nhận biết chung về địa lý liên quan không chỉ tới lãnh thổ Trung Quốc mà
còn là lãnh thổ của các nước khác. Những tài liệu này không đưa ra cơ sở khoa
học vững chắc để kết luận rằng những địa điểm được đề cập trong các tác phẩm đó
là Hoàng Sa mà Trung Quốc đã sở hữu hơn 2000 năm.