TIN NÓNG HOÀNG SA-TRƯỜNG SA, BIỂN ĐÔNG (VIỆT NAM)

Thứ Bảy, 12 tháng 7, 2014

Phóng sự ảnh: Đẫm nước mắt tiễn đưa 18 chiến sỹ hy sinh

(TNBĐ) -Phút tiễn đưa các chiến sĩ hy sinh về đất mẹ: Nước mắt hòa trong mưa:
18 chiếc xe tang lần lượt rời khỏi nhà tang lễ cũng là lúc trời đổ cơn mưa tầm tã. Nhiều người đã òa khóc trong đau đớn khi linh cữu đi qua

 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam





















(Trung Quốc)- Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc ngày nay (kỳ 5)

(TNBĐ) - Bị giam trong phòng “tội phạm đặc biệt” cùng dãy hành lang với nguyên soái Bành Đức Hoài ở bệnh viện Quân Giải phóng nhưng đại tướng La Thụy Khanh không hề hay biết…


Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc ngày nay

Kỳ 5: Đại tướng La Thụy Khanh nhảy lầu tự vẫn

Bị giam trong phòng “tội phạm đặc biệt” cùng dãy hành lang với nguyên soái Bành Đức Hoài ở bệnh viện Quân Giải phóng nhưng đại tướng La Thụy Khanh không hề hay biết…
Mãi đến khi được phép ra ngoài tập đi lại từng bước ông mới thấy một phòng tương tự gần nơi mình nằm có lính cầm súng gác và một tấm bình phong che chắn cửa ra vào. Ông nói bâng quơ: “Chẳng hiểu ai bị nhốt trong ấy”
Con gái Điểm Điểm của ông thưa: “Nghe nói họ nhốt bác Bành Đức Hoài!” Từ đó ông ngầm để ý xem các hộp cơm do lính gác đem vào cho Bành Đức Hoài ăn, lúc bưng ra vơi hết hay còn. Hễ hôm nào nguyên soái bỏ ăn là hôm ấy hộp còn nguyên. Không ít lần La Thụy Khanh thấy không những các hộp cơm còn nguyên mà kèm theo tiếng la hét đập phá vang ra từ căn buồng tối tăm ấy.
Những lần như thế, La Thụy Khanh không khỏi hồi tưởng lúc Bành Đức Hoài bị bãi chức vào năm 1959, Lâm Bưu lên thay làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, thì quan hệ giữa La Thụy Khanh và Lâm Bưu chưa rạn nứt. 
Sang đầu thập niên 1960, Lâm Bưu mới lộ dần “khoảng cách” đáng sợ. Nhất là từ tháng 1.1965, khi Lưu Thiếu Kỳ với tư thế Chủ tịch nước, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, đã đề nghị đưa Tham mưu trưởng La Thụy Khanh vào danh sách Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng: “tuy đây chỉ là chức vụ danh dự, không có thực quyền, nhưng sự đề bạt này có nghĩa là đã đưa La Thụy Khanh đứng vào hàng ngũ các nguyên soái” (Tân Tử Lăng - tài liệu đã dẫn trong Kỳ 2) - gây “khó chịu” cho Lâm Bưu. Vài tháng sau, Lâm Bưu tố cáo thẳng thừng với Mao Trạch Đông về “nguy cơ Lưu Thiếu Kỳ và La Thụy Khanh đang cấu kết để mưu nắm hết quân quyền”. Nhưng La Thụy Khanh đang được Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Hạ Long và các lãnh đạo Quân ủy trung ương ủng hộ, nên Lâm Bưu chưa bức hại được. 
Đợi đến dịp Giang Thanh cùng ra tay, mối nguy hiểm mới thực sự đến bên thềm nhà La Thụy Khanh. Nguyên đêm 26.11 năm ấy, Giang Thanh gặp La Thụy Khanh đòi cấp quân phục cho mình để mặc trong các cuộc tọa đàm về tình hình văn nghệ quân đội (làm “ngòi nổ” cho cuộc cách mạng văn hóa) nhưng La Thụy Khanh từ chối “vì bà ta không có  quân tịch”. 
Giang Thanh hậm hực ra về, lúc đó Lâm Bưu mới phái vợ mình là Diệp Quần đáp máy bay bí mật đến gặp Mao Trạch Đông vào 5 giờ sáng ngày 1.12 tại một biệt thự ở Hàng Châu để “báo cáo khẩn cấp” về La Thụy Khanh.
Không lâu sau, Mao Trạch Đông  giao Lâm Bưu chủ trì Hội nghị Thường vụ Bộ chính trị mở rộng họp tại Thượng Hải từ ngày 8 đến 15.12.1965 với 38 người, trong đó có các lãnh đạo trung ương và tướng lĩnh cao cấp, để Diệp Quần lần đầu tiên và bất ngờ đứng lên tố cáo “La Thụy Khanh âm mưu cướp quyền lãnh đạo quân đội, ép Lâm Bưu nhường ghế Bộ trưởng Bộ Quốc phòng”. Mặc dầu “Bành Chân, Lưu Bá Thừa bỏ phiếu chống, Lưu Thiếu Kỳ, Trần Văn, Đặng Tiểu Bình. Hạ Long, Lục Định Nhất, Lý Phú Xuân, Đàm Chấn Lâm bỏ phiếu trắng”nhưng cuối cùng hội nghị vẫn quyết định: 
Tước hết các chức vụ: Bí thư Trung ương Đảng, Phó thủ tướng, Tổng tham mưu trưởng quân đội của La Thụy Khanh
La Thụy Khanh không được phép có mặt tại Hội nghị để bào chữa cho mình, xin gặp Mao Trạch Đông và Lâm Bưu nhưng cũng bị bác bỏ. Ông đóng cửa suốt mấy tháng liền trước và sau Tết nguyên đán năm ấy không muốn tiếp khách cho đến khi hay tin Quân ủy Trung ương theo lệnh Lâm Bưu và Giang Thanh vừa lập Tổ chuyên án để thẩm tra đấu tố ông. Không chịu nổi nghịch cảnh, ngày 18.3.1966 đại tướng La Thụy Khanh đã nhảy lầu tự tử.
Nhưng ông không chết, bị gãy chân và cần được chữa chạy gấp. Song Lâm Bưu đã có chỉ thị phải làm chậm quá trình cấp cứu để dành thời gian đấu tố ông, khiến sau này phải phẫu thuật cắt bỏ đi gần nửa chân trái, rồi tháo luôn phần xương chân còn lại, làm vị đại tướng nguyên Bộ trưởng Bộ Công an, một trong những tham mưu hàng đầu trong cuộc “vạn lý trường chinh” ngày nào phải chống gậy khập khểnh đi qua mùa gió loạn…
Về giai đoạn trên, tài liệu Tân Tử Lăng nhận định: Mao Trạch Đông “hy sinh” La Thụy Khanh (để Lâm Bưu bức hại), sau đó tính tới “đối thủ” khác (triệt hạ Lưu Thiếu Kỳ và tăng cường quyền uy cho Lâm Bưu), để “dấy lên phong trào quần chúng học tập và vận dụng tác phẩm của Mao mang màu sắc cuồng nhiệt tôn giáo trong 3 triệu quân nhân - đây là sự chuẩn bị về dư luận, tư tưởng và chính trị quan trọng nhất cho đại cách mạng văn hóa”, đạt “kỷ lục thế giới” về ngót 5 tỷ cuốn “Mao tuyển” trích lời “giáo huấn” của Mao Trạch Đông được in ra giữa thời đói kém.
Để rồi sau 10 năm Đại cách mạng văn hóa “theo Diệp Kiếm Anh tiết lộ tại lễ bế mạc Hội nghị công tác trung ương ngày 13.12.1978: có 20 triệu người chết, 100 triệu người bị đấu tố, lãng phí 800 tỷ nhân dân tệ” - để lại một nước Trung Hoa đầy ngập oan hồn…  (còn nữa)




 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

(NLLS)- Cuộc chiến tranh 28 phút trên biển – cái nhìn từ TQ

(TNBĐ) - Trong suốt mấy ngàn năm lịch sử, nước VN luôn đối mặt với các cuộc xâm lược từ phương Bắc. Cho dù có đánh thắng họ rồi, các vua VN vẫn cứ phải cử sứ thần sang TQ triều cống, tỏ ra thần phục để giữ quan hệ lâu dài. Đó là một trong những kế sách giữ nước của một nước nhỏ nằm sát nách một nước rất lớn và tàn bạo. Nhưng, ông cha ta không hề một phút mơ hồ đối với dã tâm của TQ. Hơn một ngàn năm Bắc thuộc, TQ đã không thể đồng hóa được dân tộc VN ta đó sao?


Quan hệ với TQ là một vấn đề khó nhất trong chính sách đối ngoại của VN – hiện nay, cũng như những năm đánh Mỹ. Cân bằng tốt hai mối quan hệ giữa VN với TQ và Liên Xô là thành công lớn nhất của ngoại giao VNDCCH thời đó. Quan hệ Việt – Trung luôn luôn là lúc nóng, lúc lạnh, ngay cả thời kỳ “trăng mật”. Khi giao nhiệm vụ cho Đoàn cố vấn TQ sang giúp VN đánh Pháp, Mao Trạch Đông nói: “Trong lịch sử từ đời Hán trở đi, TQ đã từng ức hiệp VN. 80 năm trước chính phủ Mãn Thanh cắt nhượng VN cho Pháp. Dân tộc VN là một dân tộc tốt, bị nước ngoài cai trị và áp bức lâu dài, họ căm thù người Pháp, rất nhạy cảm với người nước ngoài. Các đồng chí có thể nói với các đồng chí VN: tổ tông xưa của chúng tôi đã từng ức hiếp các đồng chí, chúng tôi xin tạ lỗi các đồng chí”.
Giữ được quan hệ tốt với TQ, chúng ta thấy Hồ Chí Minh có vai trò rất lớn. Có dịp, chúng ta sẽ đề cập thêm vấn đề này trong đề tài Ngoại giao VN thời đánh Mỹ.
Sau cuộc chiến biên giới năm 1979, TQ thực hiện rất nhiều chính sách thâm độc hòng làm “chảy máu” VN, làm cho VN suy yếu, kiệt quệ. Trên đất liền, tiếp tục quấy nhiễu biên giới, đánh nhau giằng co hơn 1.800 ngày. Năm 1984, TQ bất ngờ tấn công điểm cao 1509, Vị Xuyên của VN mà TQ gọi là Lão Sơn, gây nhiều thương vong cho quân VN.
Trên biển, ngày 14.3.1988 (cách đây 22 năm), đã diễn ra một trận đánh ở Trường Sa giữa VN và TQ, tức là cuộc chiến tranh 28 phút trên biển, kết thúc bằng việc TQ lại giành thêm một số đảo nữa ở Trường Sa, sau khi đã chiếm trọn Hoàng Sa.
Theo cái nhìn từ TQ, ngày 14.3.1988, trong khi nhân viên khảo sát khoa học của TQ đang tiến hành công việc bình thường trên 2 đảo đá thuộc quần đảo Trường Sa, thừa lúc tàu thuyền bảo vệ hoạt động khảo sát khoa học của Hải quân TQ quay về đảo Hải Nam, Hải quân VN đã tập kích bất ngờ, nổ súng, bắn pháo vào nhân viên khoa học TQ, hòng chiếm những hòn đảo này. Ngoài ra, Hải quân VN còn nã pháo vào tàu thuyền tuần tiễu của TQ, làm bị thương một số người. Trong khoảnh khắc, trên biển tối sầm, tiếng pháo đùng đúng, bốn bề tiếng súng râm ran. Toàn bộ nhân viên khảo sát khoa học, tính mạng và tài sản của họ bỗng dưng bị đe dọa nghiêm trọng.
Vẫn theo cái nhìn từ TQ, trước tình thế khẩn cấp, bộ đội Hải quân TQ lập tức xuất kích, với 3 tàu hộ vệ làm chủ lực, hướng thẳng về phía tàu VN. Chiến hạm kiểu mới được trang bị tên lửa biển đối biển, pháo tự hành 100 ly hợp đồng tác chiến với tàu ngầm và các loại hạm tàu kiểu mới khác, hình thành lưới lửa dày đặc, khiến quân VN lâm vào thế trận bị động chịu đòn. Tàu đổ bộ 505 của Hải quân VN đang tấn công vào đảo vội vã ứng chiến, còn hai tài vận tải 604, 605 cũng tổ chức bắn trả, vừa đánh vừa tìm cách rút lui. Trong tiếng pháo đùng đùng, tàu vận tải 604 của Hải quân VN bị bắn chìm tại chỗ, tàu đổ bộ 505 bị bắn trọng thương và chìm trên đường về, còn tàu vận tải 605 bị mắc cạn.

Cuộc chiến đấu không cân sức chỉ diễn ra vẻn vẹn 28 phút, đã kết thúc với phía VN bị thiệt hại: một tàu chìm tại chỗ, 02 tàu bị thương, 20 người chết, mất tích 74 người. Phía TQ chỉ có một số người bị thương, ngoài ra không tổn thất gì.
Sự thực dĩ nhiên tất cả không phải như cái nhìn từ TQ. Chúng ta thấy đầy rẫy sự mâu thuẫn và dối trá khi TQ mô tả nguyên nhân của trận đánh. Làm sao mà TQ bỗng dưng có ngay 3 tàu hộ vệ làm chủ lực, chiến hạm kiểu mới được trang bị tên lửa biển đối biển, pháo tự hành 100 ly hợp đồng tác chiến với tàu ngầm và các loại hạm tàu kiểu mới khác đế tấn công tàu VN? Lại nói, chỉ có một số nhân viên khảo sát khoa học trên đảo, nhân lúc Hải quân TQ quay về đảo Hải Nam, Hải quân VN đã tập kích bất ngờ, nổ súng?
Sự thực là tàu VN chở vật liệu ra xây dựng ở đảo, khi đó Hải quân TQ đã dàn trận sẵn, chỉ chờ cơ hội là lập tức nổ súng. So sánh lực lượng, chúng ta thấy sự hơn hẳn của TQ và TQ còn dành luôn ưu thế bất ngờ trong trận đánh.
Tại thời điểm nổ ra trận đánh đó, một số nhà nghiên cứu TQ cho rằng: Hải quân TQ muốn giành lại tất cả các đảo của quần đảo Trường Sa không phải là khó khăn lắm. Song, vấn đề là làm sao giữ được những hòn đảo này, vì chúng cách đất liền quá xa, điều kiện cố thủ kém, là sơ hở mà người VN có thể lợi dụng. Vậy, muốn giữ phải có sự yểm trợ và phối hợp của không quân. Trước mắt, liệu máy bay quân sự của TQ có thể cất cảnh ở Hải Nam, bay đi làm nhiệm vụ ở Trường Sa rồi trở về được không? Muốn vậy, phải có tàu sân bay và tiếp dầu trên không.
Đến nay thì quân đội TQ nói chung, Hải quân TQ nói riêng, đã rất lớn mạnh, có đầy đủ điều kiện. Rõ ràng, dã tâm từ xưa đến nay của TQ là rất lớn và sự cảnh giác của VN phải luôn luôn đặt trong trạng thái thường trực – đặc biệt trong việc giữ nguyên trạng Trường Sa.
Tháng Ba 13, 2010 — Lê Mai


 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

(Trung Quốc)- Mao Trạch Đông, ngàn năm công và tội (chương 22)


Tháng 2-1964, Kim Nhật Thành thăm Trung Quốc. Hội đàm với Kim, Mao đã phủ định sạch trơn các chính sách điều chỉnh trong thời kỳ khó khăn, phê phán Lưu Thiếu Kỳ muốn đánh sập chủ nghĩa xã hội, với cương lĩnh đối nội “ba tự một bao”, cương lĩnh đối ngoại “ba hoà một ít” (hoà hoãn với đế quốc xét lại và chủ nghĩa dân tộc phản động, ít ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc). Nội dung trên được truyền đạt trong cán bộ cấp cao, Lưu Thiếu Kỳ liền trở nên mờ nhạt.
Chương 22: Bộ tư lệnh thứ hai trong đảng
Thất bại trong ba năm Đại tiến vọt trở thành cơn ác mộng của Mao Trạch Đông. Làm 37,55 triệu người chết đói, tổn thất 120 tỉ NDT là một chính sách bạo ngược mà không một hôn quân, bạo chúa nào trong lịch sử có thể theo kịp. Bất kể trước đây sáng suốt, vĩ đại đến đâu, có cống hiến lớn lao đèn chừng nào, cũng không thể bù đắp được sai lầm khủng khiếp này. Mao không thể quên được quang cảnh Đại hội 7.000 người, một hình ảnh thu nhỏ của toàn đảng, sự tin cậy, yêu mến và ủng hộ đối với Mao lung lay rõ rệt. Chỉ cần Lưu Thiếu Kỳ giơ tay hô to “Ba ngọn cờ hồng là sai lầm đường lối!”, thì toàn đảng, toàn dân sẽ cùng hỏi tội Mao. Không thể tiêu cực ngồi chờ Lưu Thiếu Kỳ triệu tập Đại hội 9 thanh toán sai lầm của “ba ngọn cờ hồng”, Mao phải tích cực, chủ động tấn công, lợi dụng ưu thế nắm quyền phát ngôn, đổi trắng thay đen, thanh toán “sai lầm ba tự một bao”.
Tháng 2-1964, Kim Nhật Thành thăm Trung Quốc. Hội đàm với Kim, Mao đã phủ định sạch trơn các chính sách điều chỉnh trong thời kỳ khó khăn, phê phán Lưu Thiếu Kỳ muốn đánh sập chủ nghĩa xã hội, với cương lĩnh đối nội “ba tự một bao”, cương lĩnh đối ngoại “ba hoà một ít” (hoà hoãn với đế quốc xét lại và chủ nghĩa dân tộc phản động, ít ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc). Nội dung trên được truyền đạt trong cán bộ cấp cao, Lưu Thiếu Kỳ liền trở nên mờ nhạt.
Phản đối “ba tự một bao” và “ba hoà một ít” là căn cứ lý luận và cương lĩnh chính trị để Mao đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ. Không một ai trong ĐCSTQ dárn đứng ra bênh vực Lưu, mặc dù họ đều biết các chính sách tlo Lưu thực hiện đã cứu vãn cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị ở Trung Quốc, giữ vững chính quyền cộng sản.
Mao cần trợ thủ để tác chiến với hệ thống đảng và chính quyền do Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình đại diện. Lâm Bưu và quân đội chỉ có vai trò phối hợp về chiến lược. Tiến hành một cuộc đấu tranh lớn như vậy cần một đấu sĩ xông pha trận mạc trong chiến dịch và chiến đấu. Chân lý đã tuột khỏi tay Mao, chỉ dựa vào quyền thế ép người nên rất khó tìm được bạn tri kỷ tâm đầu ý hợp. Trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư có nhiều chính khách tài trí hơn người như vậy mà chẳng dùng được ai, phần lớn họ theo Lưu, Đặng, đứng về phía đối lập với Mao cả rồi. Thế là Mao quyết tâm bồi dưỡng Giang Thanh, hình thành một phái do Giang Thanh làm trung tâm xuất hiện trên vũ đài chính trị Trung Quốc, bản thân Mao đứng sau Giang, tăng cường mạnh mẽ sức mạnh hô phong hoán vũ của phái này.
Cơn lốc Đại cách mạng văn hoá bùng lên năm 1966 khiến nhân dân toàn Trung Quốc chóng mặt, cũng làm cho các nhà quan sát trên toàn thế giới sững sờ, không biết Mao định làm gì. Các nhà trí thức lương thiện thường hiểu Mao theo ý nghĩa chính diện, cho rằng Mao muốn phát động quần chúng cải tạo đảng, giám sát đảng, khiến đảng cách mạng hoá và dân chủ hoá. Bốn mươi năm sau khi màn kịch lịch sử đó qua đi, những gì để lại vẫn khiến người ta hoa mắt. Có người nói Mao muốn phòng ngừa và chống xét lại, nhưng chọn nhầm đối tượng đả kích; có người nói Mao vẫn theo đuổi một xã hội mới công bằng hợp lý, nhưng phương pháp có vấn đề; có người nói Mao đầy động cơ cao thượng, nhưng hai tập đoàn chống đảng Lâm Bưu, Giang Thanh làm cho mọi việc rối tung lên. Thật ra, sự việc rất giản đơn. Muốn che đậy sai lầm trong 3 năm “Đại tiến vọt” (chủ yếu là làm 37,55 triệu người chết đói), Mao lại mắc sai lầm 10 năm Đại cách mạng văn hoá. Muốn không bị thanh toán sau khi chết, không thể dựa vào Lưu Thiếu Kỳ. Còn Lâm Bưu chỉ là chiếc gậy để đánh đổ Lưu thôi. Mao chơi con bài “người kế tục” cuối cùng muốn truyền ngôi cho Giang Thanh, rối Mao Viễn Tân. Chỉ có thể dựa vào vợ và cháu. Đại cách mạng văn hoá là dùng cái “lý luận tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản” cấp tiến nhất để che đậy thực chất quá độ từ đảng trị sang gia đình trị. Điều này đã được chứng minh bởi các sử liệu đáng tin cậy do Diêu Văn Nguyên và Trương Ngọc Phượng tiết lộ.
Năm 1938 khi Giang Thanh kết hôn với Mao Trạch Đông, Bộ Chính trị đã có quyết định cấm Giang Thanh trong 20 năm không được giữ chức vụ nào trong đảng, không được dính líu đến vấn đề nhân sự và tham gia sinh hoạt chính trị.
24 năm qua đi, tháng 9-1962, Hội nghị Trung ương 10 khoá 8 vừa họp, Mao từ rút lui về kinh tế chuyển sang tấn công về chính trị, miệng niệm chú đấu tranh giai cấp giành lại quyền chủ động về chính trị. Vừa lúc đó, phu nhân Tổng thống Indonesia Sukarno thăm Trung Quốc. Theo nghi lễ ngoại giao, Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và phu nhân Vương Quang Mỹ tiếp đón, báo chí đã đăng in ảnh. Đột nhiên, Mao Trạch Đông quyết định ông ta phải tiếp bà Sukarno. Thế là trên đầu trang nhất “Nhân dân nhật báo” ngày 30-9 năm đó nổi bật tấm ảnh Giang Thanh tươi cười bên Mao, khi Mao bắt tay bà Sukarno. Mao đã khéo léo đứa Giang lên vũ đài chính trị.
Nhiệm vụ đầu tiên Mao trao cho Giang Thanh là tổ chức viết bài phê phán vớ kịch “Hải Thụy bãi quan” của Ngô Hàm làm đột phá khẩu cho Đại cách mạng văn hoá. Sau Tết nguyên đán 1965, Giang đi chuyến xe lửa riêng xuống Thượng Hải. Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư thứ nhất Thành uỷ Thượng Hải Kha Khánh Thi vốn là phần tử tích cực trong “Đại tiến vọt”.
Được biết Mao cần tổ chức viết bài phê phán Ngô Hàm nhằm tiếp tục thanh toán Bành Đức Hoài, Kha mừng lắm, giới thiệu với Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Bí thư kiêm Trưởng ban tuyên truyền Thành uỷ, Trương Xuân Kiều lại giới thiệu một thuộc hạ là Diêu Văn Nguyên. Công việc này được giữ kín với cả Thường vụ Bộ Chính trị.
Sau Quốc khánh năm 1965. Bành Chân gặp Mao báo cáo công việc của Tổ cách mạng văn hoá (được thành lập từ tháng 7-1964, phụ trách chỉnh phong và triển khai phê bình học thuật trong giới văn nghệ, do Bành Chân làm Tổ trưởng, Lục Định Nhất làm Tổ phó, ba thành viên còn lại: Khang Sinh, Chu Dương, Ngô Lãnh Tây), nhân đó can ngăn Mao đừng phê phán Ngô Hàm, chuyên gia sử học, Phó Thị trưởng Bắc Kinh, một trí thức được Bành Chân đánh giá là trung thành với ĐCSTQ, hơn nữa, Ngô Hàm viết tác phẩm đề cao khí tiết của Hải Thụy chính là hưởng ứng việc Mao đề xướng cán bộ cấp cao học tập tinh thần Hải Thụy, nói thẳng, nói thật (Hội nghị Trung ương 7 khoá 8 tháng 4-1959). Nhưng Mao bác bỏ ý kiến của Bành Chân.
Sau khi Mao Trạch Đông sửa đến ba lần, ngày 7-11-1965 bài bình vở kịch lịch sử mới “Hải Thụy bãi quan” ký tên Diêu Văn Nguyên được đăng trên tờ “Văn Hối” Thượng Hải. Từ Hàng Châu, Mao lặng lẽ quan sát thái độ của Bắc Kinh đối với Diêu Văn Nguyên, nhưng đến 20-11, các báo phát hành ở Bắc Kinh vẫn im lặng. Mao chỉ thị cho Giang Thanh in bài của Diêu Văn Nguyên thành sách nhỏ, phát hành trong cả nước.
Ngày 24, hiệu sách Tân Hoa Thượng Hải điện khẩn yêu cầu cả nước đặt mua. Cơ quan phát hành sách Bắc Kinh xin ý kiến Thành uỷ, Bành Chân nói dứt khoát:
- Bắc Kinh một cuốn cũng không mua. Then chốt là xem chân lý ở phía nào. Trung ương nhiều lần họp, năm uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị không ai nói phải phê phán Ngô Hàm”.
Hai ngày sau, Bành Chân nhận được điện thoại của Chu Ân Lai:
- Mao Chủ tịch chỉ thị báo chí ở Bắc Kinh phải đăng ngay bài của đồng chí Diêu Văn Nguyên, kèm theo lời nhà xuất bản.
Theo gợi ý của Chu, Bành Chân triệu tập hội nghị công tác tuyên truyền, quyết định các báo ở Bắc Kinh đăng lại bài của Diêu Văn Nguyên, nêu rõ đây là thảo luận học thuật. Để bảo vệ Ngô Hàm, Bành Chân xuống Hàng Châu, hai lần gặp Mao Trạch Đông can gián. Đến lúc này, Mao vẫn muốn lôi kéo Bành Chân, vì cần một chính khách có trọng lượng tham gia Đại cách mạng vãn hoá. Mao khuyên Bành nên gặp Trương Xuân Kiều, và hẹn gặp lại Bành tại Thượng Hải vào 26-12, đúng ngày sinh nhật thứ 72 của ông ta. Hôm ấy, Bành được xếp ngồi đối diện Mao tại bàn tiệc chính. Mao gọi Trương Xuân Kiều đến ngồi cạnh, giới thiệu Trương là “tú tài đỏ” “nhà lý luận” đã cùng Diêu Văn Nguyên tổ chức viết bài phê phán Ngô Hàm. Khi Bành nâng cốc chúc thọ, Mao uống cạn, rồi nói bằng giọng Hồ Nam the thé:
- Đồng chi Bành Chân, tôi cũng kính ông một cốc, hy vọng ông học tập các đồng chí Thượng Hải, đưa cuộc đấu tranh phê phán “Hải Thụy bãi quan” vào chiều sâu, đây là cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản trong lĩnh vực ý thức hệ, mong ông vượt qua cửa ải này.
Trở lại Bắc Kinh, Bành Chân tiếp tục đưa cuộc phê phán “Hải Thụy bãi quan” vào lĩnh vực thảo luận học thuật. Đầu tháng 2-1966, Tổ cách mạng văn hoá 5 người soạn thảo “Đề cương hội báo” được Hội nghị thường vụ Bộ Chính trị dưới sự chủ trì của Lưa Thiếu Kỳ chấp nhận, ngày 8-2, 5 người mang theo bản đề cương lên gặp Mao Trạch Đông. Mao xem xong nói “không có ý kiến gì”. Do đó, ngày 12-2, Đặng Tiều Bình phê chuẩn cho phân phát đề cương trên (gọi tắt là Đề cương tháng Hai) tới cấp huyện và trung đoàn trở lên trong cả nước.
Động thái trên khiến Lưu Thiếu Kỳ lầm tưởng Mao vẫn công nhận vị trí Trung ương của Bắc Kinh. Lưu liền đề nghị đi thăm nước ngoài theo kế hoạch đã định, Mao cũng đồng ý, có nghĩa là đối ngoại, Lưu vẫn đại diện nhà nước Trung Quốc. Thế là Lưu cùng Trần Nghị đi thăm Pakistan, Afganistan và Myanma từ 22-3 đến 19-4.
Bất ngờ, ngày 30-3, Mao đùng đùng nổi giận gọi điện chất vấn Chu Ân Lai:
- Vị Hoàng đế nào quyết định dùng danh nghĩa văn kiện trung ương phân phát đề cương hội báo của Bành Chân trong toàn Đảng?
Chu báo cáo quá trình Thường vụ Bộ chính trị thảo luận, quyết định, và nhận trách nhiệm về mình.
Mao dặn Chu:
- Trước tiên hãy giữ kín, xử lý thế nào chờ ý kiến tôi”.
Lợi dụng thời cơ Lưu Thiếu Kỳ ở nước ngoài, với thế sấm vang, chớp giật, Mao Trạch Đông đã đánh đổ Bành Chân và Lục Định Nhất, vô hiệu hoá Ban Bí thư Trung ương, làm cho Thành uỷ Bắc Kinh và Ban Tuyên truyền Trung ương tê liệt.
Cuối tháng 3 tại Thượng Hải, Mao đã gặp Khang Sinh, Nguỵ Văn Bá, Triệu Nghị Mẫn, Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, phê phán Bành Chân, Lục Định Nhất và “Đề cương tháng Hai” với lời lẽ gay gắt chưa từng thấy:
- “Đề cương tháng Hai” không phân rõ phải trái, Thành uỷ Bắc Kinh và Ban Tuyên truyền Trung ương bao che kẻ xấu, không ủng hộ phái “tả”; Bắc Kinh kim châm không vào, giọt nước không lọt, phải giải tán Thành uỷ; Ban Tuyên truyền Trung ương là điện Diêm vương, phải đánh đổ Diêm vương, giải phóng tiểu quỷ; Ngô Hàm, Tiệm Bá Tán là học phiệt, được đại đảng phiệt bên trên bao che; “Thôn na nhà” do Đặng Thác, Ngô Hàm, Liêu Mạt Sa viết và “Yên Sơn dạ thoại” của Đặng Thác là ngọn cỏ độc lớn chống Đảng, chống Chủ nghĩa xã hội.
Mao mượn lực lượng của Lâm Bưu để nâng Giang Thanh trên vũ đài chính trị. Từ 2 đến 20-2-1966, Giang Thanh mời một số cán bộ phụ trách công tác văn hoá, tuyên truyền thuộc Tổng cục Chính trị tổ chức 4 cuộc toạ đàm về tình hình văn nghệ trong quân đội. Gọi là toạ đảm, thực tế là nghe Giang Thanh nói. Bản tổng hợp “những ý kiến cực kỳ quan trọng” của Giang Thanh trong cuộc toạ đàm này dài khoảng 3.000 chữ, theo lệnh của Mao, Trần Bá Đạt, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên sửa chữa, bổ sung, nâng cao, dài thêm 7.000 chữ nữa. Cuối cùng Mao sửa thêm mấy lần, đặt tên là “Kỷ yếu cuộc toạ đàm về công tác văn nghệ quân đội do đồng chí Giang Thanh triệu tập theo uỷ thác của đồng chí Lâm Bưư”.
Mao triệu tập cuộc họp Thường vụ Bộ Chính trị mở rộng từ 16 đến 24-4 tại Hàng Châu. Ngày 19-4, Lưu Thiếu Kỳ từ Yangun về đến Côn Minh thì nhận được thông báo đến Hàng Châu dự họp. Sự thật đặt ra trước mắt Lưu lúc đó là: Bành Chân và Lục Định Nhất đã bị đánh đổ, Thành uỷ Bắc Kinh và Ban Tuyên truyền Trung ương tê liệt, Tổ Cách mạng văn hoá 5 người bị giải tán, “Thông tri của Ban chấp hành trung ương ĐCSTQ” đốt lên ngọn lửa Đại cách mạng văn hoá đã định hình, Tổ Cách mạng văn hoá mới đã được thành lập với 13 thành viên, gồm Tổ trưởng Trần Bá Đạt, cố vấn Khang Sinh, Tổ phó thứ nhất Giang Thanh, Tổ phó Vương Nhiệm Trọng, Lưu Chí Kiên, Trương Xuân Kiều… Nhân vật trung tâm trong Tổ Cách mạng văn hoá trung ương là Giang Thanh. Để toàn đảng hiểu rõ điều này, một thông tri mang danh nghĩa Ban chấp hành trung ương ngày 30-8-1966 viết:
“Đồng chí Trần Bá Đạt do ốm đau được Trung ương cho nghỉ ngơi. Trong thời gian đồng chí Trần Bá Đạt nghỉ ốm hoặc đi công tác, đồng chí Giang Thanh làm Quyền Tổ trưởng”.
Bá Đạt là anh đồ gàn, khi có mặt cũng nghe theo Giang Thanh thôi. Khang Sinh từ lâu đã là cố vấn riêng của Giang Thanh, về sau qua mấy lần đào thải, Giang Thanh đã đuổi hết những người không vừa ý, chỉ còn lại Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Lực, Quan Phong, Thích Bản Vũ. Thế là hình thành “Đảng Hoàng hậu” của Giang Thanh. Cái Tổ Cách mạng văn hoá trung ương này ban đầu cũng không làm người ta chú ý lắm, nhưng về sau nó đã thay thế cả Ban Bí thư và Bộ Chính trị, trở thành cốt lõi chủ thể trạng “Bộ Tư lệnh vô sản” của Mao Trạch Đông, Ban chấp hành trung ương ĐCSTQ trở thành “Cửa hàng Mao-Giang”, Giang Thanh leo lên đỉnh cao quyền lực.



 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Loading...