Khi cảm
thấy đã chắc chắn thao túng được Ban chấp hành trung ương, Mao ra lệnh triệu
tập Hội nghị Trung ương 11 khoá 8 từ 1 đến 12-8-1966. Trước cuộc họp, Mao gọi
Chu Ân Lai, Đào Chú, Trần Bá Đạt, Khang Sinh đến hỏi ý kiến về người thay thế
Lưu Thiếu Kỳ. Mao và 4 người viết lên người đó lên bàn tay mình, khi mở ra,
tất cả đều một chữ “Lâm”.
Dự Hội nghị có 141 uỷ viên và uỷ
viên dự khuyết Trung ương Đảng. Những người phụ trách các Trung ương cục, các
tỉnh và thành phố trực thuộc, các cơ quan trung ương và các thành viên Tổ
Cách mạng văn hoá trung ương được mời dự thính. Chương trình Hội nghị gồm
thông qua quyết định phát động Đại cách mạng văn hoá, thảo luận và phê chuẩn
các biện pháp lớn về các vấn đề trong nước và quốc tế từ kỳ họp trước đến
nay, thông qua thông cáo của hội nghị này, truy nhận quyết định thay đổi nhân
sự của Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng.
Đọc báo cáo công tác, Lưu Thiếu Kỳ
chủ động nhận trách nhiệm về vấn đề cử các tổ công tác vào các trường đại học
và học viện, Mao liên tục cắt ngang với lời lẽ gay gắt.
Sau khi châm ngòi lửa Đại cách mạng
văn hoá, Mao bỏ xuống Hàng Châu nghỉ ngơi, mặc cho Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu
Bình chủ trì công tác trung ương, đối phó tình trạng rối loạn ở Bắc Kinh và
cả nước, đây là một âm mưu lớn, một cái bẫy lớn, Lưu-Đặng làm thế nào cũng
sai, cũng bị Mao nắm thóp. Kết quả là Lưu-Đặng đứng ra lo liệu, đưa các tổ
công tác vào các trường đại học, Mao liền nói họ đàn áp quần chúng cách mạng,
thực hiện khủng bố trắng, đẩy lùi Đại cách mạng văn hoá, thực hiện đường lối
tư sản phản động, buộc họ kiểm thảo mắc sai lầm đường lối. Nếu Lưu-Đặng không
đứng ra lo liệu, đề mặc cho tình hình rối loạn. Mao sẽ nói đây là cuộc bạo
loạn phản cách mạng, Trung Quốc xuất hiện “sự kiện Hungary” do Lưu-Đặng đứng
đằng sau. Khi ấy, Mao sẽ hy sinh mấy chục vạn học sinh, đứng ra bảo vệ những
người bị hại, một lần nữa trở thành “đại cứu tinh của nhân dân”.
Mao nắm quyền phát ngôn, tiếng nói
có sức nặng ghê gớm, đó lâ chỗ lợi hại của kẻ độc tài. Nhưng Mao đã dự đoán
Lưu-Đặng sẽ không bỏ mặc cho tình hình rối loạn không kiểm soát nổi, thông
qua cuộc đấu tranh chống phái hữu, các bộ, các cấp mặc choé tình hình hỗn
loạn. Mao ung dung ngồi xem họ mắc sai lầm đường lối tư sản phản động.
Khi Diệp Kiếm Anh xen vào “Chúng ta
có quân đội, không sợ yêu ma quỷ quái”. Mao nói như quát lên: “Yêu ma quỉ
quái đang có mặt tại đây”. Chiều 5-8, trên cương vị Chủ tịch nước, Lưu Thiếu
Kỳ tiếp Đoàn đại biểu Zambia, về đến nhà liền nhận được điện thoại của Chu Ân
Lai yêu cầu ông không xuất hiện công khai, không tiếp khách nước ngoài. Lưu
hiểu đây là lệnh của Mao.
Chuẩn bị xong xuôi, tại cuộc họp
Thường vụ Bộ Chính trị, Mao tuyên bố muốn thay người kế tục, và giới thiệu
Lâm Bưu. Lưu Thiếu Kỳ đã sớm nhìn ra nước cờ này, ông lên tiếng tán thành
ngay. Các uỷ viên Thường vụ khác cũng bỏ phiếu tán thành. Ngày 8-8, Hội nghị
Trung ương thông qua quyết định về Đại cách mạng văn hoá, rồi chuyển sang phê
phán Lưu, Đặng. Hội nghị bổ sung Đào Chú, Trần Bá Đạt, Khang Sinh, Từ Hướng
Tiền, Nhiếp Vinh Trăn, Diệp Kiếm Anh làm uỷ viên chính thức, Lý Tuyết Phong,
Tống Nhiệm Cùng, Tạ Phú Trị làm uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị, Tạ Phú Trị,
Lưu Ninh Nhất vào Ban Bí thư, Đào Chú làm Bí thư trực, đưa Bành Chân, La Thụy
Khanh, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn ra khỏi Ban bí thư.
Mao Trạch Đông chuẩn bị một danh
sách Thường vụ Bộ chính trị 11 người, gồm Mao, Lâm, Chu, Đặng, Trần Bá Đạt,
Khang Sinh, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Trần Vân, Lý Phú Xuân, Đào Chú. Do được
100% số phiếu, Đặng được xếp ở vị trí thứ 4. Sau đó, theo ý Giang Thanh, Mao
đưa Đào Chú lên vị trí thứ 4, đẩy Đặng Tiểu Bình xuống vị trí thứ 7, Trần Vân
xuống vị trí cuối cùng. Mao muốn cử hai Phó Chủ tịch Đảng là Lâm Bưu và Chu
Ân Lai. Song Chu đề xuất chỉ có một Phó Chủ tịch là Lâm Bưu, để nêu bật vị
trí người kế tục. Chu chủ động lùi một bước, vừa tránh được sự đố kỵ của Mao,
Lâm, vừa được lòng người.
Qua việc Giang Thanh tham gia cải
tổ Thường vụ Bộ Chính trị có thể thấy Đại cách mạng văn hoá vừa bắt đầu, Mao
đã coi Giang Thanh là người kế tục để bồi dưỡng. Sau khi Đặng Tiểu Bình bị
đánh đổ, Ban Bí thư tê liệt, Mao đã lấy Tổ cách mạng văn hoá trung ương thay
thế Ban Bí thư, vị trí và vai trò thực tế của Giang Thanh trong Đại cách mạng
văn hoá tương đương Tổng Bí thư.
Sau Hội nghị Trung ương 11 khoá 8,
từ Bắc Kinh đến cả nước, đông đảo cán bộ và quần chúng tỏ ra không sao hiếu
nổi việc Mao Trạch Đông phát động Đại cách mạng văn hoá và phê phán đường lối
tư sản phản động của Lưu Thiếu Kỳ, xuất hiện tình trạng “HAI ĐẦU NÓNG, GIỮA
LẠNH” (đầu trên là Mao và Tổ Cách mạng văn hoá trung ương, đầu dưới là các
“tiểu tướng Hồng vệ binh” bị lừa dối, lợi dụng thì sôi sùng sục, còn ở giữa -
các cơ quan đảng và chính quyền các cấp đông đảo cán bộ, quần chúng - thì
phát mà không động, một trạng thái chống đối Lưu Thiếu Kỳ được đông đảo cán
bộ, quần chúng ủng hộ như vậy khiến Mao rất lo. Thế là ngày 1-10 Mao kêu gọi
“triệt để phê phán đường lối tư sản phản động”, tổ chức lực lượng mở cuộc
tổng công kích vào “Bộ tư lệnh tư sản” Lưu-Đặng. Mao kết hợp cuộc tiếp kiến
Hồng vệ binh lần thứ 4 với lễ mừng Quốc khánh thứ 17, nên có tới 1,5 triệu
Hồng vệ binh tham gia hoạt động này. Một nhóm Hồng vệ binh nhận nhiệm vụ bí
mật căng trên quảng trường Thiên An Môn khẩu hiệu lớn “Đả đảo Lưu Thiếu Kỳ,
Đặng Tiểu Bình!” Họ công khai hô khẩu hiệu đánh đổ Lưu, Đặng, công khai tuyên
bố trước toàn thế giới mũi nhọn của Đại cách mạng văn hoá chĩa vào đầu.
Trước sức ép của phong trào Hồng vệ
binh, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình buộc phải thừa nhận đã mắc sai lầm về
đường lối. Theo nhịp điệu do Mao định ra, Lưu Thiếu Kỳ đã phủ định toàn bộ công
tác chỉnh đốn kinh tế quốc dân, ngăn chặn nạn đói lan tràn, khiến đất nước
tránh khỏi sụp đổ do ông lãnh đạo. Như vậy là Mao Trạch Đông, người phát động
phong trào Đại tiến vọt, Công xã hoá làm 37,55 triệu người chết đói lại trở
thành nhà lãnh đạo “luôn luôn đúng đắn”, còn Lưu Thiếu Kỳ, người đã đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng, khiến nhân dân thoát khỏi nạn đói lại là người mắc
sai lầm về đường lối, phải đánh đổ.
Phát biểu trước Hội nghị công tác
Trung ương ngày 25-10, Mao Trạch Đông đổ hết mọi trách nhiệm cho Lựu Đặng.
Mao nói: Trong 17 năm (từ 1949 đến 1966), Mao ở tuyến 2, “không chủ trì công
tác hàng ngày”, các đồng chí ở tuyến 1 “xử lý công việc không tốt lắm” (nghĩa
là đường lối chung, Đại tiến vọt, công xã nhân dân, chết đói trên 37,5 triệu
người… đều do người khác làm), thiếu sót của Mao chỉ là phân chia tuyên 1
tuyến 2, và quá tin vào Lưu, Đặng.
Do Giang Thanh đạo diễn ngày
6-1-1967 đã xảy ra vụ “dùng mưu bắt Vương Quang Mỹ” đem đến Đại học Thanh Hoa
phê đấu, sau nhờ Chu Ân Lai can thiệp, bà Vương được tha về. Đêm 13-1, Mao
cho thư ký đón Lưu Thiếu Kỳ đến gặp tại Nhà Quốc hội. Đây là cuộc gặp cuối
cùng giữa hai người. Lưu nhận trách nhiệm về “sai lầm đường lối” lần này. Ông
nói đông đảo cán bộ đều tốt, yêu cầu nhanh chóng thả họ ra để Đảng bớt bị
thiệt hại. Ông cũng xin từ chức Chủ tịch nước và uỷ viên Thường vụ Bộ Chính
trị, cùng vợ con về quê làm ruộng, để sớm kết thúc Đại cách mạng văn hoá,
giảm thiệt hại cho đất nước. Mao rít thuốc lá, lặng lẽ nghe, im lặng hồi lâu
rồi khuyên Lưu đọc cuốn “Chủ nghĩa duy vật máy móc” của Hê-ghen. Mao còn vờ
hỏi thăm tình hình con Lưu, nhắc Lưu chú ý giữ gìn sức khỏe.
Ngày 4-10, vẫn do Giang Thanh dày
công đạo diễn, Hồng vệ binh Đại học Thanh Hoa tổ chức đại hội phê phán Vương
Quang Mỹ, có 30 vạn người tham gia, lôi cả hơn 300 cán bộ thuộc “phái đi con
đường tư bản chủ nghĩa” trong đó có Bành Chân, Bạc Nhất Ba, Lục Định Nhất,
Tưởng Nam Tường ra đấu.
Từ sáng sớm, ôtô của Hồng vệ binh
đã vào Trung Nam Hải bắt người. Vương Quang Mỹ bị dẫn đến tầng 7 toà nhà
chính của Đại học Thanh Hoa, bị cưỡng bức mặc bộ trang phục hồi thăm
Indonesia, và bị choàng lên cổ một chiếc “dây chuyền” cực lớn xâu bằng những
quả bóng bàn. Màn kịch xấu xa trên đã bộc lộ hết sự hẹp hòi, đố kỵ, tâm lý
đen tối và nhân cách hạ đẳng của Giang Thanh. Hôm sau, tin ảnh về “ba lần
thẩm vấn Vương Quang Mỹ” xuất hiện trên các bản tin của Hồng vệ binh làm chấn
động dư luận thế giới, sự tôn nghiêm của Lưu Thiếu Kỳ trên cương vị Chủ tịch
Nhà nước Trung Quốc bị quét sạch trơn.
Đầu tháng 7-1967, 1,5 vạn người đại
diện cho hơn 500 tổ chức tạo phản ở Bắc Kinh và hàng chục tỉnh thành khác,
dựng trên 7.000 chiếc lều kéo dài hàng chục dặm từ cửa tây tới cửa bắc Trung
Nam Hải, tuyên bố thành lập “Bộ chỉ huy hoả tuyến đấu Lưu Thiếu Kỳ”, 500 loa
phóng thanh công suất lớn ra rả suốt ngày đêm phê phán Lưu. Mao hài lòng thấy
Lưu bị bao vây trong thiên la địa võng của Hồng vệ binh. Ngày 13-7, Mao rời
Bắc Kinh “tuần du phương Nam”. Chuyến tàu chở Mao vừa chuyển bánh, Giang
Thanh liền thúc giục Hồng vệ binh đấu Lưu Thiếu Kỳ.
Ngày 18-7, phái tạo phản đồng thời
đấu ba cặp vợ chồng Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Đào Chú tại nơi ở của họ
trong Trung Nam Hải. Ngày 5-8, kỷ niệm một năm ngày Mao viết bài “Nã pháo vào
bộ tư lệnh”, Tổ cách mạng văn hoá tổ chức cuộc họp một triệu người tại quảng
trường Thiên An Môn, hỏi tội Lưu, Đặng. Đào, đồng thời tổ chức đấu họ tại nơi
ở. Hôm ấy, Lưu Thiếu Kỳ bị đánh sưng mặt, tuột cả giày.
13-9-1967 là ngày gia đình Lưu ly
tán: bà Vương Quang Mỹ bị bắt giam, ba người con ở tuổi đi học buộc phải vào
trường chịu thẩm tra, bé út 6 tuổi phải theo bảo mẫu ra khỏi Trung Nam Hải.
Lưu Thiếu Kỳ bị giam ngay trong Văn phòng Chủ tịch nước. Mao muốn giày vò Lưu
ngay trước mắt mình, muốn thấy ông ta từng bước suy sụp về tinh thần và thể
chất, từng bước đi vào chỗ chết. Lợi dụng học sinh đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ,
nhưng Mao vẫn quan tâm đến hiến pháp và pháp luật. Mọi người thấy đấy: Mao
không hề hạ lệnh bắt Lưu, không giam Lưu vào nhà tù, không cử người ám sát
hoặc ra lệnh xử bắn Lưu; Lưu vẫn là Chủ tịch nhà nước Trung Quốc, vẫn ở trong
Văn phòng Chủ tịch của ông ta; còn việc quần chúng không ủng hộ, muốn lật đổ
ông ta, thì đấy là phong trào quần chúng tự phát, trách ai được. Nếu truy cứu
vụ án bức hại Chủ tịch nước cho đến chết thì chẳng nắm được sơ hở nào của
Mao, rất khó mà định tội. Mao không bảo Lưu phải ngừng thực thi chức quyền
Chủ tịch nước, không nói phải giam Lưu, đấu Lưu, về văn tự chẳng để lại dấu
vết nào. Việc quy Lưu là phản bội, nội gian, công đoàn vàng, thì với tư cách
Chủ tịch Đảng, Mao không ký, mà do Chu Ân Lai thay mặt Ban chấp hành trung
ương ký. Thế là Mao lẩn hết trách nhiệm. Hành động chính trị lưu manh này là
sự sa đoạ về phẩm chất chính trị của Mao. Nhưng Mao không thoát khỏi sự phán
xét của Toà án đạo đức.
Năm ấy Lưu đã 69 tuổi, sự bức hại
đối với ông ngày càng gia tăng. Mấy lần đấu đá khiến ông tổn thương nặng nề
cả về tinh thần và thể chất. Tay ông bị thương trong chiến tranh, qua mấy lần
bị đánh, nay không tự do cử động được nữa, mặc một chiếc áo cũng phải mất
hàng giờ. Mỗi bữa ăn, khoảng cách đến nhà ăn chỉ chừng 30 mét, mà ông phải lê
đôi chân bị thương đi mất 50 phút. Người ta đã nhắc nhở lính canh không được
đỡ Lưu. Về sau Lưu không đi nổi, phải mang cơm tận nơi, rồi lại một lần mang
cơm cho mấy bữa, cơm thiu cũng mặc. Lưu chỉ còn 7 chiếc răng, ăn uống như vậy
khiến ông thường bị tiêu chảy, lại không thể thay quần áo, trong phòng hôi
thối nồng nặc. Ngày nào cũng bị đấu, quanh phòng đầy khẩu hiệu làm nhục ông,
tên ông chúng viết thành Lưu Thiếu Cẩu. Ông đầy lòng căm phẫn mà không nói ra
được, muốn nghỉ ngơi mà không được yên, có bệnh không được chữa chạy. dần dần
tâm trí hoảng loạn, sụp đổ về tình thần.
Khi chân lý trong tay, Mao có thể
bao dung các đối thủ, đoàn hết phe phản đối. Thường khi Mao đuối lý, phát
hiện mình sai rồi, thì ông ta không thể bao dung phái phản đối, mà quyết tâm
đẩy họ vào chỗ chết, để trừ hậu hoạ. Đó là lý do vì sao Mao tàn bạo đến tận
cùng đối với những người bạn cũ như Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài…
|