TIN NÓNG HOÀNG SA-TRƯỜNG SA, BIỂN ĐÔNG (VIỆT NAM)

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2014

(TNBĐ) - Liên minh 'tứ cường' chống Trung Quốc đang xuất hiện

(TNBĐ)- Giới quan sát cho rằng yếu tố Trung Quốc đã thúc đẩy hình thành một 'liên minh chiến lược' tứ cường Nhật-Úc-Ấn-Mỹ.
Trong cuộc họp an ninh 2+2 Nhật Bản - Úc tại Tokyo ngày 12/6, Ngoại trưởng Úc Julie Bishop tuyên bố ủng hộ Nhật Bản cải tổ Hiến pháp, cho phép Tokyo tăng cường khả năng phòng thủ với các nước đồng minh.


Úc nêu rõ tranh chấp chủ quyền tại biển Đông và biển Hoa Đông phải được giải quyết bằng con đường đối thoại và các bên phải tuân thủ luật pháp quốc tế.
Ngoại trưởng Úc cho rằng việc Tokyo tăng cường khả năng phòng thủ sẽ có lợi cho cả hai nước và điều đó sẽ giúp Nhật Bản đóng một vai trò quan trọng hơn trong việc bảo đảm an ninh và hòa bình cho khu vực. 
Úc ngày càng bày tỏ quan điểm mạnh mẽ trong bối cảnh Trung Quốc hung hăng khẳng định chủ quyền tại biển Đông và Hoa Đông.
Trong khi đó, Nhật Bản đang từng bước xây dựng một liên minh quân sự rộng lớn bên trong lẫn bên ngoài hiệp ước song phương Mỹ - Nhật.
Nhật và Úc đang tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng, với dự án trao đổi công nghệ tàu ngầm quân sự.
Tân Thủ tướng Ấn Độ Narenda Modi dự kiến thực hiện chuyến công du đầu tiên tới Tokyo và tuyên bố sẽ 'đối đầu' với Trung Quốc khi cần thiết.
Tại Diễn đàn An ninh Shangri-La vừa qua ở Singapore, Thủ tướng Abe tuyên bố Nhật Bản sẵn sàng trợ giúp các nước Đông Nam Á để bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Ông gián tiếp lên án Trung Quốc đối xử với các láng giềng theo kiểu 'lấy thịt đè người' mà chính Nhật Bản cũng là nạn nhân.
Giữa thập niên 2000, ý tưởng xây dựng một vành đai an ninh bao gồm Nhật-Ấn-Úc đã được 3 vị thủ tướng khi đó là Junichiro Koizumi của Nhật Bản, John Howard của Úc và Atal Vajpayee của Ấn Độ phác thảo. Ý tưởng này cũng được Tổng thống Mỹ George W.Bush ủng hộ.

 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

(TNBĐ) - Chuyện đời thiền sư lừng danh nước Việt

(TNBĐ) - Chuyện thiền sư Từ Đạo Hạnh lặn lội sang Tây Thiên học phép để trả thù cho cha, sau đó thác sinh, trở thành vua Lý Thiền Tông cho tới nay vẫn còn là một huyền thoại mê hoặc và đầy cảm hứng đối với nhiều người.

Tuy nhiên, đằng sau lớp vỏ huyền thoại ấy, người ta vẫn có thể tìm thấy những nét chân thực nhất về câu chuyện đời vị thiền sư lừng danh nước Việt này…

Học phép để trả thù cho cha

Thiền sư Từ Đạo Hạnh sinh năm 1072, vốn tên là Lộ, tự là Đạo Hạnh, sống vào thời vua Lý Nhân Tông, tu ở chùa Thiên Phúc trên núi Sài Sơn, thuộc phủ Quốc Oai, Sơn Tây ngày nay. Theo những gì sử sách còn ghi chép lại được thì cha của Từ Đạo Hạnh tên là Từ Vinh, thuở nhỏ xuất gia theo học Phật nhưng về sau thì hoàn tục và làm quan tới chức Tăng Đô Sát trong triều đình nhà Lý.

Vào những lúc rỗi rãi, Từ Vinh thường đến làng An Lãng ở phía Tây kinh thành, tức làng Láng bây giờ, dạo chơi rồi quen biết và lấy một người con gái làng ấy tên là Tăng Thị Loan. Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan sinh được hai người con, một gái và một trai, Từ Đạo Hạnh là con trai thứ hai nhà họ Từ. Hai ông bà làm nhà trên mảnh đất phía Nam của làng ấy, nay chính là chùa Láng.
Nhiều người nói rằng, thế đất mà ông Từ Vinh chọn để dựng nhà là kiểu đất quý nên ông sinh được quý tử là Từ Đạo Hạnh, từ nhỏ đã có khí cốt tiên Phật. Tuy nhiên, khi đến tuổi đi học Từ Đạo Hạnh cũng giống như những đứa trẻ khác, suốt ngày chỉ thích giao du, chơi bời, không mấy chăm chú gì đến việc học hành. Chỉ có một điều khác lạ là mọi hành động và lời nói của Từ không ai có thể lường đoán được.
Ông Từ Vinh vốn quan tâm đến sự học hành và sự nghiệp tương lai của cậu con trai duy nhất, thấy thế thì buồn phiền và nhiều lần trách mắng Đạo Hạnh, tuy nhiên Từ Đạo Hạnh nghe xong thì đâu lại hoàn đấy, dường như chẳng có biến chuyển gì.
Mãi tới một đêm, trời đã rất khuya, ông Từ Vinh tình cờ đi qua buồng học của Từ Đạo Hạnh, thấy sách vở bày la liệt, ngọn đèn dầu lạc đã cháy gần tàn mà Từ Đạo Hạnh vẫn cầm cuốn sách trên tay, vừa đọc sách vừa mệt mỏi mà ngủ gật. Từ Vinh thấy vậy thì hài lòng lắm, biết rằng, Đạo Hạnh ban ngày chỉ thích đá cầu, đàn hát nhưng ban đêm thì lại dành thời gian chuyên tâm đọc sách.
Đến khoa thi tăng đồ, Đạo Hạnh tham dự và đỗ đầu trong khoa thi ấy. Tuy nhiên, trong thời gian Đạo Hạnh đi thi thì chuyện không may xảy đến với gia đình họ Từ. Nguyên nhân là vì ông Từ Vinh có xích mích với nhà Diên Thành Hầu ở mạn cầu An Quyến, cạnh sông Tô Lịch. Trong nhà Diên Thành Hầu có nuôi một pháp sư pháp thuật rất cao cường tên là Đại Điên. Do xích mích với Từ Vinh, Diên Thành Hầu đã sai Đại Điên tới nhà họ Từ dùng phép đánh chết Từ Vinh rồi vứt xác xuống sông Tô Lịch ngay cạnh nhà.
Từ Vinh chết oan nên xác vứt xuống dòng Tô Lịch trôi đến cửa nhà Diên Thành Hầu thì dựng đứng dậy không chịu trôi đi nữa. Đại Điên thấy vậy, xuống tận nơi hét to lên rằng: “Người tu hành không được giận mãn kiếp. Sống chỉ là một trò đùa bỡn, chết mới thành đạo Bồ đề!”. Đại Điên dứt lời, xác Từ Vinh trôi đi liền nhưng đến xã Nhân Mục thì lại dừng lại thêm một lần nữa. Người làng này thấy vậy, cho là linh thiêng, bèn vớt lên hậu táng, rồi sau đó dựng lăng miếu và đắp tượng thờ, hàng năm tổ chức tế lễ vào ngày mồng 10 tháng giêng, là ngày giỗ của Từ Vinh.

Từ Đạo Hạnh sau khi biết chuyện cha mình bị Đại Điên hại chết thì nuôi ý định báo thù vì vậy mặc dù đỗ đạt nhưng vẫn không ra làm quan. Một hôm, Đạo Hạnh rình lúc Đại Điên đi ra ngoài đường, cầm gậy xông đến định đánh chết Đại Điên, song đương lúc định ra tay thì bỗng nghe trên không có tiếng hét lớn: “Không được! Thôi ngay đi!”. Từ Đạo Hạnh nghe thấy tiếng hét, sợ hãi đành bỏ gậy ra về.

(TNBĐ)-Uy lực vòi rồng của tàu kiểm ngư KN-781 hiện đại nhất Việt Nam

(TNBĐ) - Liên tiếp trong những ngày vừa qua, tàu KN-781 đã có những chuyến hải trình ngắn trên vùng biển Quảng Ninh nhằm kiểm tra kỹ năng "tác chiến" và điều khiển thuần thục các trang thiết bị trên tàu. Chỉ còn ít ngày nữa tàu KN-781 sẽ được đơn vị đóng tàu Hạ Long và nhà thầu Damen (Hà Lan) bàn giao cho Cục Kiểm ngư VN làm nhiệm vụ trên vùng biển giàn khoan Hải Dương 981 và các tàu của Trung Quốc đang hoạt động trái phép.


Đây là 1 trong 2 con tàu kiểm ngư đầu tiên do Tập đoàn Damen (Hà Lan) thiết kế và chuyển giao kỹ thuật đóng mới theo tiêu chuẩn Châu Âu. KN-781 có chiều dài 90,50 mét, rộng 14 mét, trang bị 4 máy công suất lớn 12.016 mã lực và có lượng choán nước lên đến 2.400 tấn. Tàu có tốc độ lý thuyết đạt hơn 21 hải lý/giờ, có thể hoạt động liên tục trong điều kiện bình thường 5.000 hải lý cho một hành trình và chịu đựng được các cấp độ sóng lớn.
PV Lao Động đã có những bức hình ghi lại những khoảnh khắc vòi rồng của KN-781 thể hiện uy lực trong buổi thử nghiệm trên vùng biển Quảng Ninh mới đây.







 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

(TNBĐ) - Lý sự cùn kiểu Trung Quốc: Người TQ nhìn thấy đảo thì đảo đó là của TQ!- Bài 2

Xem Bài 1- Lý sự cùn kiểu TQ: Người TQ đã đặt tên đảo nên đảo phải là của TQ!

Kỳ 2: “Chủ quyền lịch sử” không phải để chứng minh chủ quyền

Căn cứ vào nguyên tắc pháp lý trên, đối chiếu với quá trình xác lập và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, để phản bác quan điểm mà phía Trung Quốc đưa ra, Tiến sĩ Trần Công Trục nhấn mạnh: Trước hết, Trung Quốc đã và đang tìm mọi cách viện dẫn nhiều sách, tài liệu địa lý, lịch sử để chứng minh và bảo vệ cho quan điểm pháp lý về quá trình xác lập và thực thi cái gọi là “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với “Tây Sa” và “Nam Sa” (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam-PV).
Những nội dung lịch sử, địa lý… mà phía Trung Quốc thường xuyên tuyên truyền trên mọi phương tiện, mọi lúc, mọi nơi thực hư như thế nào? Giá trị của chúng đến đâu? 
Tầu cá VN bị tầu TQ đâm

Trao đổi với phóng viên, ông Trục cho biết: Qua nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong đó, nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của người Trung Quốc đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và Nam Á cùng đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, mà không có bất kỳ sự ghi chép nào về việc Nhà nước Trung Quốc đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền và việc người dân Trung Quốc "đến hai quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) để đi biển và sản xuất". Các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung về các địa điểm chứ không có ý nghĩa đáng kể trong pháp lý. Vì vậy, việc Trung Quốc qua đó mà viện dẫn, nói quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc là không có cơ sở.
Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi nhận rằng, đã gặp trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định đây là những mô tả về quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, rất thiếu chính xác, không thể căn cứ vào đó để nói rằng, đó chính là Trường Sa.
Tiến sĩ Trục chỉ rõ các tư liệu đã chứng minh sự sai trái, ngộ nhận từ phía Trung Quốc như: Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265) viết dưới triều Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hàng hải trong Biển Đông nhưng rất không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo này hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp.
Các tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi (đời Tống, 1178), Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (đời Tống, 1225), Đảo di chí lược của Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp (1618), Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lục viết dưới đời Thanh, Hải Lục của Vương Bính Nam (1820), Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848),… là một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi, các chuyến khảo cứu địa lý, sách hàng hải liên quan tới các nước bên ngoài Trung Quốc.
Để làm rõ hơn vấn đề này, ông Trục chỉ ra một nghiên cứu của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam cho rằng, thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ rút ra từ đó kết luận: Hoàng Sa, Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ của Trung Quốc: “Bản đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ địa điểm của Việt Nam là Giao chỉ quốc, nước Giao chỉ và biển thì ghi rõ là Giao chỉ dương, tức là ghi rõ đất liền là Giao chỉ quốc và biển là biển của Giao chỉ.
Hàng trăm bản đồ quốc tế khác cũng đều chỉ rõ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Tất cả đều rất thống nhất với nhau.
Chỉ rõ sự sai trái, biện minh vô lý của ông Dương Trạch Vỹ, Tiến sĩ Trục cho biết thêm: Trong các tài liệu, tư liệu mà Trung Quốc đưa ra để chứng minh chủ quyền từ lâu đời của mình đối với hai quần đảo này, có đề cập việc dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X-XII), các cuộc tuần tra quân sự của nước này đã được tổ chức, xuất phát từ Quảng Đông đi tới Hoàng Sa, rồi kết luận rằng "triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa vào phạm vi cai quản của mình", "hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng quần đảo Tây Sa". “Tuy nhiên, khi phân tích kỹ dữ liệu này thấy rằng, đó không phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến thăm dò địa lý cho tới tận Ấn Độ Dương, không minh chứng một sự chiếm hữu nào”, ông Trục khẳng định.

Ông Trục cũng chỉ rõ sai trái của chính quyền Trung Quốc hiện thời, đó là việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự kiện đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở "Nam Hải" để nói rằng "quần đảo Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung Quốc đời Nguyên".

(TNBĐ)-Tin Biển Đông 14/6/2014: Tàu pháo TQ giả dạng tàu hải cảnh đuổi tàu VN



(TNBĐ) -Sáng nay (14/6) tàu pháo của TQ gắn 4 buồng pháo loại 76 li giả dạng tàu hải cảnh đã áp sát tàu của VN.
Sáng nay, mặc dù biển động, gió Tây Nam cấp 5, giật cấp 6 nhưng các biên đội tàu kiểm ngư, cảnh sát biển Việt Nam vẫn tiếp tục cơ động tìm cách đi sâu vào khu vực giàn khoan Hải Dương-981.
Khi các biên đội 8 tàu kiểm ngư và cảnh sát biển, trong đó có tàu KN 22 nhận lệnh theo hướng Đông Đông Nam tiến vào giàn khoan đã gặp đội tàu hơn 10 chiếc của Trung Quốc lao ra cản trở.
Các tàu này ngang ngược dùng loa phát thông tin cho rằng tàu Việt Nam đang xâm phạm lãnh hải của Trung Quốc, thông tin từ báo Tuổi trẻ.
Sau đó, tàu hải cảnh số hiệu 13 đã tìm cách áp sát, đe đọa tàu CSB-4032 của Việt Nam.
Đáng nói, tàu hải cảnh 13 thực chất là tàu pháo giả dạng, bởi trên tàu này có gắn 4 buồng pháo loại 76 li.
Trong một diễn biến khác, cách khu vực giàn khoan 4 hải lý, một tốp các tàu hải cảnh lớn của Trung Quốc tự bật vòi rồng phun lẫn nhau không rõ lý do.
Trong sáng nay, tàu CSB-4032 là tàu tiến sâu nhất vào khu vực giàn khoan với khoảng cách chừng 8,5 hải lý.
Tuy nhiên, sau đó tàu này đã bị 2 tàu hải cảnh Trung Quốc áp sát.
Sau một hồi rượt đuổi bất thành, các tàu Trung Quốc rút lui trở lại khu vực giàn khoan.
Trong khi đó các tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư trong biên đội của tàu KN 22 được lệnh rút ra khỏi khu vực giàn khoan khoảng 13 hải lý.
 - https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

(TNBĐ) - Trung Quốc hớ miệng thừa nhận đã dùng vũ lực để có được Hoàng Sa



(TNBĐ) Trung Quốc tiếp tục đưa ra những luận điệu “ngược đời” về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và đã để lộ ra sơ hở.

Tờ Tân Hoa Xã hôm nay trích dẫn một bài viết của giáo sư Gong Yingchun, vốn là giảng viên khoa Luật quốc tế, trường Đại học Ngoại giao Trung Quốc. Trong bài viết của mình, ông Yingchun tiếp tục những lời lẽ vô căn cứ về việc chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa đã được thiết lập từ khoảng thế kỷ thứ 10, song lại không có một căn cứ gì được dẫn chứng. 
Ông Yingchun cũng nói rằng khoảng năm 1934-1935, trong khi đi thực hiện một cuộc kiểm tra trên biển, nhóm công tác đặc biệt của Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ và hải quân Trung Quốc đã vẽ và đặt tên các đảo Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa…và gọi đây là “bằng chứng rõ ràng” chủ quyền của họ trên quần đảo này.

Trong khi đó, tác phẩm Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá, tự Công Đạo soạn vào thế kỷ XVII có bản đồ nước An Nam từ thế kỷ XV, trên đó đã chỉ rõ quần đảo Hoàng Sa trong Biển Đông dưới tên gọi Bãi Cát Vàng thuộc phủ Quảng Nghĩa. 
Trong bài viết của mình, giáo sư Yingchun đưa ra một thông tin quan trọng. Đó là, trước sự kiện Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, vị này giải thích đó là hành động “tự vệ”. Theo Hiến chương LHQ, chiếm đóng bằng bạo lực không mang lại chủ quyền nhưng ông Yingchun lại viện dẫn điều 51 Hiến chương LHQ rằng một nước có chủ quyền có quyền tự vệ để duy trì tính toàn vẹn lãnh thổ của mình. Do đó, hành động của Trung Quốc năm 1974 là dùng quân sự để chống lại quân đội của Việt Nam Cộng Hòa để bảo vệ “lãnh thổ” của họ.
Trên thực tế, chưa một quốc gia hay điều khoản nào trong luật pháp quốc tế công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ cố hữu của Việt Nam. Do đó, thực chất hành động của Trung Quốc chỉ là lợi dụng thời điểm lịch sử đó để đưa quân đội vào chiếm đóng bất hợp pháp. Những lý lẽ, hay nói đúng hơn là lời lẽ của giáo sư Yingchun chỉ khẳng định một lần nữa: Trung Quốc đã thực sự dùng đến vũ lực để có được Hoàng Sa.


 TIN NÓNG BIỂN ĐÔNG(TNBĐ)

(TNBĐ) - Giải mã những tiên tri kinh ngạc của Trạng Trình

Cho đến những đời sau, khi sự việc xảy ra, người ta mới giật mình bởi độ chính xác đến kinh ngạc của những câu sấm truyền.



Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), người mà dân gian quen là Trạng Trình là một nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được người đời biết đến với tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam - Bắc triều cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.

Ông không chỉ nổi tiếng về văn chương, chính sự mà còn rất nổi tiếng về tài dự đoán. Trong cuốn Phả ký Nguyễn Bỉnh Khiêm được viết vào năm 1743, Vũ Khâm Lân đã nhận xét: “Ông là người khôi ngô anh tuấn, học hết các kinh sách lại rất tinh tế về nghĩa lý Kinh Dịch. Phàm việc mưa nắng, lụt hạn, họa phúc, điềm dữ, điềm lành, cơ suy, cơ thịnh... việc gì cũng biết trước”.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có những dự đoán tương lai bí ẩn, thường gọi là Sấm Trạng Trình, mà cho đến những đời sau, khi sự việc xảy ra người ta mới giật mình bởi độ chính xác đến kinh ngạc. 

Vào những năm cuối cùng của thế kỷ 19, nhà sư Vương Quốc Chính, người xã Cổ Am (Vĩnh Bảo, Hải Phòng), phát động phong trào chống Pháp đô hộ. Trước đó, trong dân gian đã lan truyền khá rộng câu sấm của Trạng: “Thầy tăng mở nước trời không bảo”. Nghĩa đen đã khá rõ, không có trời nào giúp nhà sư, vì đã là người xuất gia tu theo Phật mà còn mưu đồ bá vương.

Các nhà nho thời ấy lại giải thích theo một nghĩa khác, theo họ thì chữ “thầy tăng” ở đây, Trạng nói kín chỉ “thằng Tây” đến cướp nước ta, đô hộ dân ta thì trời không dung thứ. Ngày ấy, chính quyền đô hộ và tay sai rất sợ sấm ký và uy tín của Trạng nên bắt bớ và khủng bố dã man những người đã truyền bá, lưu giữ sấm Trạng.

Cho đến nay, rất tiếc là Sấm Trạng Trình vốn chỉ còn lại ở dạng truyền miệng, chỉ có số ít lưu giữ dưới dạng chép tay. Tuy nhiên, trong những tập sấm ký mà người đời sau sưu tầm được, khó có thể do những ai hiếu sự đã đặt ra, bởi nó đã được cố định hóa trước những sự kiện lịch sử hàng chục, hàng trăm năm, lại được lan truyền rộng rãi trong dân gian.

Nam Đàn sinh thánh 

Đã từ lâu, ở nhiều địa phương trên cả nước, nhất là vùng Nghệ Tĩnh, người ta đã lưu truyền những câu sấm của Trạng Trình như sau: “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh”. Tạm dịch nghĩa là: “Khi núi Đụn chẻ đôi, khe Bò Đái mất tiếng, sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh ra bậc thánh nhân”.

Nhà sử học Ngô Đăng Lợi (Hải Phòng), người chuyên nghiên cứu về Sấm Trạng cho biết, sau khi thực dân Pháp đàn áp tàn khốc phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, câu sấm này lại được bàn tán trao đổi rộng với niềm khát khao mong chờ vị thánh nhân xuất thế. Lúc đó, khe Bò Đái cũng đã ngừng chảy, tiếng suối chảy ở khe không còn nghe được nữa, do đó người dân càng tin và càng chờ đợi.

Trong một cuộc gặp giữa cụ Phan Bội Châu, học giả Đào Duy Anh, và nhà nho Trần Lê Hữu, nội dung cuộc đối thoại chỉ xoay quanh tình thế nước nhà và tương lai sẽ ra sao, Trần Lê Hữu có hỏi: "Thưa cụ Phan, “Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh” chẳng phải là cụ hay sao? Cụ còn thất bại nữa là người khác!". Phan Bội Châu đáp: "Kể cái nghề cử tử xưa kia tôi cũng có tiếng thật. Dân ra thường có thói trọng người văn học và gán cho người ta tiếng nọ tiếng kia. Nhưng nếu Nam Đàn có thánh thực thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ chẳng phải ai khác".

Khởi nghĩa Yên Bái 1930

Sau cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng phát động bị thất bại tháng 2 năm 1930 (Canh Ngọ), nhiều căn cứ bị Pháp đàn áp, khủng bố dã man như Yên Bái, Lâm Thao, Hưng Hóa, Kiến An, Vĩnh Bảo... R

iêng làng Cổ Am bị 5 máy bay đến ném bom làm nhiều người chết, nhiều nhà cửa bị thiêu cháy, đổ nát. Nhân sự kiện này, tuần báo Phụ nữ tân văn số 44 có đăng bài “Ông Trạng Trình có biết trước rằng làng Cổ Am của ông có ngày nay không?”. Tác giả bài viết ngờ rằng Trạng có biết nên “đã dời hết sách vở của ông vào Thanh Hóa... vì theo di chúc của ông thì làng Cổ Am không được bền vững”.

Sau đó, báo nhận được một bài thơ do bạn đọc sưu tầm và gửi cho, được cho là bài thơ sấm của Trạng Trình. Phụ nữ tân văn (số 48) đã cho đăng bài thơ sấm đó: “Hiu hiu gió thổi, lá rung cây/ Từ Bắc sang Nam, Đông tới Tây/ Cửa nhà tan tác ra cồn cát/ Rừng núi ruộng nương hóa vũng lầy/ Tan tác Kiến kiều An đất nước/ Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây/ Một gió, mộtYên ai sùng Bái/ Cha con người VỉnhBảo cho hay”.

Có một người dân làng Cổ Am cho hay, khi Pháp ném bom xuống làng, miếu thờ Trạng bị đổ lây. Mấy tuần sau dân ra sửa sang lại thì phát hiện ra một tấm bia nhỏ khắc ba hàng chữ Hán theo lối triện: “Canh niên tân phá/ Tuất, hợi phục sanh/ Nhị ngũ dư bình”.

Lúc ấy người ta đoán Canh niên tức là năm Canh Ngọ (1930), còn ý tứ của 2 câu sau cho đến giờ vẫn đang còn tranh luận. Còn bài thơ sấm ở trên chắc chắn có trước năm 1930 và được lưu truyền, những địa danh lịch sử liên quan đến cuộc khởi nghĩa Yên Bái đều được phản ánh dưới dạng kín đáo.

(TNBĐ)- RA HOÀNG SA CÙNG NGƯ DÂN





Bài của ban BT Tin nóng Biển Đông: https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

(TNBĐ) - Ca khúc Khi Tổ Quốc Cần- 100 ca sỹ cùng hát





Bài của ban BT Tin nóng Biển Đông: https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

(TNBĐ) - Kỹ năng hoàn hoào của lính bắn tỉa Việt Nam




Bài của ban BT Tin nóng Biển Đông

(TNBĐ) - Bộ ảnh Biểu tình phản đối Trung Quốc

Bộ ảnh  khắp nơi trên thế giới biểu tình phản đối Trung Quốc xâm phạm Biển Đông của Việt Nam tháng 5/2014






Loading...