Chương 7
Các nhà tư bản gióng trống, khua chiêng đi lên chủ nghĩa cộng sản
Sau
mùa mùa hè năm 1955, “cao trào” hợp tác hoá nông nghiệp ảnh hưởng mạnh mẽ đến
cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trong ngành thủ công nghiệp và công thương
nghiệp tư bản tư doanh. Đến cuối năm 1956, ngành này đã cơ bản hoàn thành
việc chuyển sang kinh tế tập thể, 92% số người làm nghề thủ công đã được tổ
chức trong gần 10.000 hợp tác xã. Từ cuối năm 1955, Thượng Hải, tiếp đó là
Bắc Kinh, Thiên Tân, cùng nhiều tỉnh và thành phố khác đã xuất hiện cao trào
công ty hợp doanh trong toàn ngành công thương. Đến tháng 6-1956, đã hoàn
thành toàn diện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ
công nghiệp và công thương nghiệp tư bản trong cả nước.
Xoá
bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ở nước Trung Hoa 600 triệu dân, một biến
đổi xã hội long trời lở đất như vậy mà Mao Trạch Đông đã làm xong trong thời
gian ngắn ngủi. Sức hấp dẫn chính trị của ông ta quả đáng thán phục. Tạo ra
được một tình thế chính trị đặc biệt, trào lưu xã hội đặc biệt, để các nhà tư
sản “gióng trống, khua chiêng” đi lên chủ nghĩa cộng sản, Mao Trạch Đông quả
là một cao thủ trong đấu tranh chính trị.
Xét
về chính trị, công cuộc cải tạo XHCN đối với công thương nghiệp tư bản chủ
nghĩa và cải tạo các nhà tư sản của ĐCSTQ rất thành công: không đổ máu; không
“tước đoạt”, mà thực hiện chính sách “trưng mua”, đều là việc chưa từng có
trong lịch sử. ĐCSTQ tự hào về điều đó. Nhưng người ta nghi ngờ tính tất yếu
và tiến bộ của biện pháp này, xét về kinh tế về giải phóng và phát triển lực
lượng sản xuất về sáng tạo văn minh vật chất và thúc đẩy tiến bộ xã hội…
Kinh
điển để Mao cải tạo xã hội chủ yếu là “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. Tư tường
chủ nghĩa xã hội không tưởng của “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” kết hợp với quan
diềm “đại đồng” của Trung Quốc hình thành mô hình chủ nghĩa xã hội không
tưởng Mao Trạch Đông. Sự phát triển của nó là Mác + Tần Thuỷ Hoàng, thêm thắt
nhiều thứ mang tính chất phong kiến, cuối cùng biến chất thành chủ nghĩa xã
hội phong kiến.
Vừa
cầm quyền liền tính chuyện tiêu diệt chế độ tư hữu, tiêu diệt giai cấp tư
sản, tiêu diệt phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, vội vã tiến hành ba
cuộc cải tạo, dựa vào chính quyền nhà nước lấy bạo lực làm hậu thuẫn, không
sợ giai cấp tư sản dân tộc chống lại, không sợ nông dân không nghe lời. Một
số ý kiến và quan điểm của Mao về cải tạo xã hội chủ nghĩa và cách mạng xã
hội chủ nghĩa có vẻ đúng đắn, song khảo sát tổng hợp thì đây là hệ thống tư
tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng. Sai lầm cơ bản là nghiêm trọng xa rời
thực tế, đi ngược lại quy luật kinh tế, chủ quan muốn đẩy mạnh phát triển lực
lượng sản xuất, trên thực tế đã phá hoại và huỷ diệt hàng loạt lực lượng sản
xuất, bóp nghẹt, cản trở lực lượng sản xuất ra đời và phát triển. Tuy chế độ
tư bản chủ nghĩa có hàng ngàn, hàng vạn tội ác, đáng bị lật đổ hàng trăm lần,
nhưng nó có cái hay như đã nêu trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” là sáng tạo
ra lực lượng sản xuất cao hơn tổng lực lượng sản xuất của mọi thời đại trước
đây. Mao muốn làm tuyệt chủng chủ nghĩa tư bản và sản xuất nhỏ, nhưng không
làm nổi. Mao có thể tổ chức quân tình nguyện đánh bại người Mỹ trên chiến
trường Triều Tiên, có thể dùng chính quyền trong tay tước đoạt tài sản của
các nhà tư sản và những người sản xuất nhỏ, nhưng ông ta không tạo ra được
lực lượng sản xuất cao hơn chủ nghĩa tư bản. Thậm chí không tạo ra được lực
lượng sản xuất cao hơn sản xuất nhỏ ở nông thôn, nên không thể làm tuyệt
chủng chủ nghĩa tư bản và sản xuất nhỏ. Bất cứ nhân vật vĩ đại nào cũng bất
lực trước qui luật kinh tế, chỉ có thể thuận theo, không thể chống lại.
Động
cơ cá nhân khiến Mao Trạch Đông vội vã từ bỏ lý luận đúng đắn của chủ nghĩa
dân chủ mới và đường lối đúng đắn của Hội nghị Trung ương 2 khoá 7 là ông ta
nôn nóng muốn làm lãnh tụ của Phong trào Cộng sản quốc tế. Sau khi Stalin từ
trần, Mao cho rằng Trời sẽ trao nhiệm vụ lớn cho ông ta, chỉ có Mao đủ tư
cách lấp chỗ trống do Stalin để lại. Muốn lãnh đạo Phong trào cộng sản và phe
xã hội chủ nghĩa, mà nước mình lại thực hiện chủ nghĩa dân chủ mới, hình thái
xã hội lạc hậu một thời đại so với các nước xã hội chủ nghĩa, thì không đủ tư
cách lãnh tụ, do đó, phải nhanh chóng trở thành một nước XHCN hùng mạnh. Đó
là nguồn gốc tư tưởng khiến Mao mắc phải chứng bệnh nóng vội trong vấn đề xây
dựng.
“Ba
cuộc cải tạo lớn” là việc làm rất sai lầm và ngu xuẩn của Mao với động cơ cao
cả và lý luận thiêng liêng.
Cả
đời Mao chưa hề đến thế giới tư bản chủ nghĩa chưa nhìn thấy phương thức sản
xuất qui mô lớn và nền văn minh vật chất của chủ nghĩa tư bản. Khái niệm của
ông về chủ nghĩa tư bản cố định ở mỏ than An Nguyên năm 1921. Ông chưa chuẩn
bị đầy đủ về lý luận cho xây dựng kinh tế. Là những người tham gia quyết sách
tối cao, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai cung có phần trách nhiệm về những sai lầm
của Mao làm cho đất nước rối tung lên.
|
Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2014
(TNBĐ) - Mao Trạch Đông, ngàn năm công và tội (Chương 7)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Loading...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét