KỲ 1: LỜI NÓI ĐẦU
(PHẦN 2)
|
(TNBĐ) - Thành tựu lớn lao của cải cách-mở cửa 27 năm qua đã đặt cơ sở hợp pháp cho ĐCSTQ cầm quyền. Nhắc lại giọng điệu “tả” khuynh là tự phủ nhận mình. Bảo vệ những sai lầm của Mao Thạch Đông, tìm kiếm tiếng nói chung với “phái tả”, thực hiện chính sách kinh tế “hữu khuynh” đi đôi với ý thức hệ “tả khuynh thì chỉ chứng minh lược rằng 27 năm qua mình đã làm sai, không tăng cường mà chỉ có thể làm suy yếu vi trí cầm quyền của ĐCSTQ; không thể mang lại tính hợp pháp cho cải cách mở cửa, mà chỉ có thể mang lại tính hợp pháp cho chủ trương chính trị phản đôi cải cách mở cửa. Thách thức vị trí cầm quyền của ĐCSTQ không phải các thế lực phương Tây ở chốn xa xôi, mà là “phái tả” trong đảng vung vẩy ngọn cờ sai lầm của Mao Trạch Đông bên trong bức tường của Đảng. Xin hãy đọc những lời lẽ sát khí đằng đằng, mê hoặc lòng người trên lá cờ của chúng. Trong bài “Chỉ có Tư tưởng Mao Trạch Đông mới cứu được Trung Quốc”, chúng viết:
“Không phải Đại cách mạng văn hoá
sai, mà là Đặng Tiểu Bình hoàn toàn phủ định Đại cách mạng văn hoá. Những người
kế thừa Đặng đã theo đuổi đường lối xét lại, và chính vì thế cần phát động cuộc
Đại cách mạng vãn hoá nữa để loại trừ”. Lúc lâm chung, Đặng Tiểu Bình dặn dò
phải cảnh giác hữu, chủ yếu phản đối “tả”, ông thật có tầm nhìn lịch sử sâu xa.
Mưu toan cùng “phái tả” bảo vệ những sai lầm của Mao để đổi lấy việc họ ủng hộ
cải cách-mở cửa chỉ khiến họ càng hung hăng phản đối cải cách-mở cửa. Sách lược
“bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang phải” đã đi đến điểm tận cùng.
Tháng 3-2004, kỳ họp thứ 2 Quốc
hội Trung Quốc khoá 10 đã đưa điều khoản quan trọng bảo vệ chế độ tư hữu vào
hiến pháp, tiếp nối quỹ đạo với “Cương lĩnh chung Hội nghị hiệp thương chính
trị nhân dân Trung Quốc” năm 1949, đánh dấu sau khi trải qua chặng đường quanh
co, Trung Quốc đã trở lại điểm xuất phát đúng đắn, đi lên con đường chủ nghĩa
xã hội dân chủ.
Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc
Trung Quốc là sản phẩm kết hợp giữa tư tưởng chủ nghĩa xã hội dân chủ của
Mác-Ăng-ghen những năm cuối đời và thực tiễn cụ thể cải cách-mở cửa của Trung
Quốc, sẽ xây dựng Trung Quốc thành một nước xã hội chủ nghĩa dân chủ giàu có,
văn minh, công bằng và hài hoà như châu Âu ngày nay. Đảng Cộng sản Trung Quốc
chuyển sang chủ nghĩa xã hội dân chủ là tuân theo lời dạy của Mác và Ăng-ghen
những năm cuối đời, kế thừa truyền thống cách mạng dân chủ mới, triệt để thoát
khỏi mô hình Liên Xô, trở lại với chủ nghĩa Mác tiến cùng thời đại. Đó là định
vị lịch sử của chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc.
Thời kỳ đầu cải cách-mở cửa để
phát triển kinh tế nhiều thành phần, phái cải cách đưa vị trí chủ đạo của kinh
tế quốc doanh vào hiến pháp nhằm làm yên lòng phái “tả” đến nay thành ra tự
tròng dây vào cổ mình, phái “tả” đứng ra “bảo vệ hiến pháp”, dựa vào hiến pháp
để chống lại. Tháng 3-2006, trong thời gian họp Quốc hội và Hội nghị hiệp
thương chính trị toàn quốc, có uỷ viên Hội nghị hiệp thương chính trị chất vấn:
“Điều 6 hiến pháp qui định cơ sở chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa nước CHND
Trung Hoa là chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, tức chế độ
sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập thể của quần chúng lao động. Kinh tế quốc
doanh năm 1992 chiếm 48% kinh tế quốc dân Trung Quốc, nay còn chiếm tỉ trọng
bao nhiêu? Những năm qua, kinh tế quốc doanh ào ạt bản rẻ cho tư nhân, hoặc
chuyển thành sở hữu tư nhân. như vậy có vi phạm hiến pháp không?” Chính phủ tự
biết mình đuối lý, chẳng ai dám đứng ra đối đáp.
Từ ngày cải cách-mở cửa đến nay,
các khoá lãnh đạo các cấp ra sức tìm cách giữ cho được vị trí chủ đạo của kinh
tế quốc doanh, đây là “trận địa cuối cùng của chủ nghĩa xã hội”. Tuy kinh tế cá
thể và kinh tế tư nhân đã ra đời, các xí nghiệp vốn nước ngoài cũng đã len chân
vào, song phái cải cách vẫn phải nắm chặt con bài “xí nghiệp quốc doanh chiếm
vai trò chủ đạo” để đối phó phái “tả” coi mình là “người bảo vệ đường lối cách
mạng của Mao Chủ tịch”. Song các xí nghiệp quốc doanh thể hiện tính ưu việt của
chủ nghĩa xã hội này làm ăn chẳng ra gì, liên tục thua lỗ. Thế là tài chính nhà
nước và địa phương cấp vốn không hoàn lại, dùng tiền thuế do nông dân và các xí
nghiệp tư nhân đóng góp để nuôi xí nghiệp quốc doanh. Khi nhà nước nuôi không
nổi, liền đẩy cho ngân hàng.
Ngân hàng mỗi năm cho vay khoảng
1.500 tỉ NDT (Nhân dân tệ - đơn vị tiền tệ của Trung Quốc), 70% số này rót vào
các xí nghiệp quốc doanh. Do các xí nghiệp quốc doanh chỉ vay không trả, nợ
đọng một khoản tiền khổng lồ, hễ bùng nổ sóng gió tiền tệ, thể chế nhà nước tất
sẽ lung lay, thế là nhà nước lại đẩy các xí nghiệp quốc doanh sang thị trường
chứng khoán. Các công ty lên sàn mấy năm trước hầu như toàn là xí nghiệp quốc
doanh. Những người chơi cổ phiếu ham phát tài, bị cuốn phăng 1.500 tỉ NDT để tiếp
máu cho các xí nghiệp quốc doanh, nhưng cũng không cứu sống nổi các xí nghiệp
này. Theo báo cáo của người phụ trách Uỷ ban kinh tế thương mại ba tỉnh Cát
Lâm, Liêu Ninh, Hắc Long Giang, có xí nghiệp quốc doanh máy móc khởi động, chi
phí than - điện - nước rót vào rồi, nhưng tiền lương công nhân viên chức, tiền
lãi các khoản vay và lợi nhuận sau thuế đều không lo nổi, đành giảm tài sản
tịnh để duy trì đời sống của công nhân viên.
Có xí nghiệp đi vay để chi trả
lương công nhân viên và tiền lãi ngân hàng. Có xí nghiệp máy móc, nhà xưởng dần
dần giảm giá, thống kê trong sổ sách trên thực tế trở thành “tài sản khống”. Có
xí nghiệp tỉ lệ lợi nhuận chỉ có 1 đến 3%, cơ bản ngang tiền lãi công trái kỳ
hạn 5 năm, có nơi còn thấp hơn.
Để chuyển lỗ thành lãi, các
phương án cải cách lần lượt được đưa ra, cơ cấu quản lý nhiều lần chấn chỉnh,
làm trong 20 năm mà vẫn thua lỗ, do đó mới có phương án cải cách, cổ phần hoá,
tư hữu hoá.
Con đường cải cách các xí nghiệp
quốc doanh sau Đại hội 15 ĐCSTQ là “nắm cái lớn, thả lỏng cái nhỏ”. Các xí
nghiệp lớn nhập vốn tư nhân và vốn nước ngoài, thực hiện chế độ cổ phần; các xí
nghiệp nhỏ thực hiện tư hữu hoá, nay Chính phủ trung ương chỉ nắm 1.200 (trước
đây là 9.000) xí nghiệp quốc doanh cỡ lớn liên quan đến vận mệnh và an ninh
quốc gia.
Cách làm này tương tự các nước
tiên tiến trên thế giới. Các nước phát triển trên thế giới thực hiện thể chế
kinh tế hỗn hợp đều có các xí nghiệp quốc doanh, chủ yếu là các nhà máy do nhà
nước độc quyền (như đường sắt, hàng không, ngân hàng), các xí nghiệp tư nhân
không đủ sức xây dựng (như điện hạt nhân, dầu khí), cùng các xí nghiệp mang
tính công ích (như giao thông công cộng, điện nước). Các xí nghiệp này không
lấy lãi làm chính, một số xí nghiệp mang tính phúc lợi toàn dân, phải dựa vào
nhà nước đầu tư và trợ giá. Nhưng các xí nghiệp này không được chiếm tỉ trọng
lớn, càng không thể chiếm vị trí chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân, mà đại thể
chỉ 15 đến 20%. Theo Công ty Tài chính-tiền tệ quốc tế, năm 1996, Trung Quốc có
114.000 xí nghiệp quốc doanh, năm 2005 còn 27.000. 77% số công ty đã tư hữu hoá
một phần hoặc toàn bộ. Tỉ trọng kinh tế quốc doanh tụt xuống còn 23%, gần bằng
quan hệ tỉ trọng các nước phát triển. Đây là việc từ không bình thường chuyển
sang bình thường, nhưng theo phái “tả” nó đã đụng chạm đến mạng sống của chủ
nghĩa xã hội.
Phải sửa đổi hiến pháp. Lý do là:
năm 1978, kinh tế quốc doanh Trung Quốc chiếm 99,1%, nhưng tổng sản phẩm quốc
nội chỉ có 362,4 tỉ NDT. Năm 2005, kinh tế quốc doanh không chiếm vị trí chủ
đạo nữa, song tổng sản phẩm quốc nội cả năm đạt 18,230 tỉ NDT. Chúng ta đứng
trước sự lựa chọn cần 17.867,6 tỉ NDT, hay cần cái hư danh vị trí “chủ đạo”
kia?
Đừng nhìn nhận quan hệ tỉ lệ đó
quan trọng đến thế, ngày nay, chủ nghĩa tư bản mới và chủ nghĩa xã hội dân chủ
đã trớ thành hai mặt của đồng tiền vàng, đều theo thể chế kinh tế hỗn hợp,
chúng ta cần thoát khỏi xiềng xích xí nghiệp quốc doanh chiếm vị trí chủ đạo do
mình tạo ra.
Phải nói thẳng là công cuộc cải
cách thể chế xí nghiệp quốc doanh cũng nảy sinh một số vấn đề, như hàng loạt
công nhân viên mất việc, quần thể yếu kém gặp nhiều khó khăn trong việc khám
chữa bệnh, học hành, dưỡng lão, quan chức tham nhũng, nhất là phân phối không
công bầng dẫn đến phân hoá hai cực, khiến lòng người xôn xao.
Công cuộc cải cách thể chế xí
nghiệp quốc doanh cơ bản do chính quyền các cấp chủ trì. Chính quyền tham gia
thiết kế bộ máy quản lý công ty, tìm kiếm người kinh doanh, định giá tài sản
quốc doanh, thậm chí gánh vác một phần tiền nợ. Các xí nghiệp quốc doanh tương
đối lớn có nhiều tài sản tồn đọng, khó mà bán được, liền mặc cho các quan chức
chủ sự “giới định” nó từ sở hữu toàn dân sang sở hữu nội bộ, trong nội bộ lại
chỉ định sau cải cách thể chế xí nghiệp quốc doanh, “người kinh doanh nắm cổ
phần lớn”. Người ta gọi lối làm ăn này là “cải cách kiểu giới định”, nói trắng
ra là chia bôi hành chính, lưu lại không gian vận hành rộng rãi cho các quan
chức và thương nhân cấu kết với nhau phát tài qua cải cách. Nếu người chủ trì
là một quan tham, thì cuốn “kinh” cải cách thể chế nhằm đưa xí nghiệp quốc
doanh thoát khỏi nghèo nàn này liền bị đọc chệch hẳn đi. Trước sự dụ dỗ của lợi
ích lớn lao nằm trong tầm tay, các quan chức rất khó giữ mình trong sạch. Chỉ
cần nội bộ tập đoàn lãnh đạo chia đều lợi ích theo quyền lực lớn nhỏ, thì chính
quyền, đảng uỷ, hội đồng nhân dân đều bật đèn xanh, mọi người vừa có tiền, lại
có thành tích chính trị; vừa phù hợp chính sách, vừa đúng với luật pháp. Thế là
hình thành “tập đoàn lợi ích” được thể chế, chính sách và luật pháp hiện hành
bảo hộ.
Những vấn đề nảy sinh trong cải
cách thể chế xí nghiệp quốc doanh cũng từng xảy ra trong các nước theo chủ
nghĩa xã hội dân chủ. Họ không lùi bước để xí nghiệp quốc doanh tiếp tục thua
lỗ rồi “hoá” sạch, mà lấy tư hữu hoá dân chủ phản đối tư hữu hoá quyền quí,
phương hướng tư hữu hoá không thay đổi. “Tư hữu hoá quyền quí” là gì? Là quan
chức câu kết với thương nhân vơ vét tài sản của nhà nước và nhân dân. Thực hiện
kinh tế thị trường mà không đồng bộ với dân chủ hoá chính trị, tất sẽ nảy sinh
quan chức câu kết với thương nhân, muốn đánh giá xí nghiệp quốc doanh thế nào
cũng được, muốn đem tài sản quốc doanh cho ai thì cho, muốn đẩy công nhân ra
đường thì đẩy ra ngoài đường, đấy là chỗ tệ hại của chủ nghĩa tư bản quan liêu.
Giả dụ chúng ta khởi động tiến trình dân chủ, tiến hành cải cách chính trị,
thật sự trao cho công nhân quyền dân chủ qui định trong hiến pháp, ủng hộ công
nhân xí nghiệp quốc doanh giám sát công cuộc cải cách thể chế, dựa vào dân chủ
giành lấy công bằng và chính nghĩa, bảo vệ quyền lợi của mình, thì vấn đề sẽ
được giải quyết dễ dàng. Ở đây cần nhấn mạnh nhất định không phải là Đảng và
Chính phủ thay mặt công nhân để chủ trì công bằng và chính nghĩa, anh cử một
cán bộ Uỷ ban kiểm tra kỷ luật hoặc Viện kiểm sát đến giám sát quan chức chủ
sự, một khi cán bộ này bị lôi kéo, liền biến thành đôi bàn tay đen khác lớn
mạnh hơn.
Làm thế nào ủng hộ công nhân.
Chẳng hạn cho phép công nhân thành lập công đoàn độc lập, tự do báo chí… Chỉ
cần có tự do báo chí, kịp thời phơi trần hộp đen thao túng việc phân chia tài
sản quốc doanh, thì có thể chặt đứt bàn tay đen mượn cải cách thể chế để vơ vét
tài sản nhà nước. Mượn cớ “ổn định áp đảo hết thảy” không cho công nhân tham
gia và nắm tình hình, kiểm soát báo chí, trên thực tế là bảo vệ cho các quan
chức ăn chia, khiến công nhân giương cao ảnh Mao Trạch Đông biểu tình thị uy,
dẫn đến không ổn định hơn. Chỉ có cải cách chính trị mới giải quyết được vấn đề
này. Đây là kết quả tốt đẹp nhất phù hợp mong muốn của những người quan tâm ổn
định và dân chủ, thị trường hoá và công bằng, tự do và trật tự ở Trung Quốc.
Do cải cách chính trị không theo
kịp, làm nổi bật mặt tiêu cực của cải cách mở cửa, khiến số người phản đối và
bất mãn với cải cách mở cửa tăng nhanh. Từ 1979 đến 1982, cả nước có 2 vạn vụ
kiện cáo lên cấp trên, năm 2005, con số này là 30 triệu vụ, tăng gấp 1.500 lần,
cũng có nghĩa là nhân tố không ổn định trong xã hội Trung Quốc tăng gấp 1.500
lần. Một số phần tử phái “tả“ cho rằng đây là tình hình có thể lợi dụng. Họ xui
nguyên giục bị, tạo gió gây mưa, lừa dối quần chúng, lôi kéo lớp trẻ. Họ cho
rằng “nước lùi, dân tiến” là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, họ cổ động
quay lại thời đại Mao, lại gây ra cuộc tranh luận Trung Quốc nay là xã hội chủ
nghĩa hay tư bản chủ nghĩa. Một khi nắm được số quần chúng trên, lý luận “tả”
khuynh có thể chuyển hoá thành lực lượng phá hoại khổng lồ. Củi kho Đại cách
mạng văn hoá còn chất đống nơi đây. Phái “tả” tạo gió gây mưa vẫn đi theo con
đường Đại cách mạng văn hoá, trương lá cờ phản đối “con đường tư bản chủ nghĩa”,
trước tiên đẩy các nhà tri thức lên đàn tế, điểm tên phê phán một số “học giả
chủ lưu” từng góp ý kiến hiến kế, có cống hiến cho cải cách-mở cửa, nói họ chủ
trương thúc đẩy xây dựng kinh tế thị trường là “tự do hoá tư sản”, lại chia cán
bộ lãnh đạo các cấp chủ trì cải cách-mờ cửa thành “phái cải cách tự do hoá tư
sản” và “phái cải cách xã hội chủ nghĩa”, xúi giục triển khai cuộc đấu tranh
lớn ở trong và ngoài Đảng, đoạt quyền của “phái cải cách tự do hoá tư sản” và
đánh đổ phái này. Điều đặc biệt cần cảnh giác là Trưởng phòng Tổng hợp Ban
nghiên cứu chính sách Trương Cần Đức đã gióng lên hồi trống trận về cuộc Đại
cách mạng văn hoá lần thứ hai. Y tuyên bố: “Trận quyết chiến sắp tới về thực
chất là cuộc vật lộn sống chết giữa hai tiền đồ, hai số phận: đi con đường tư
bản chủ nghĩa hay con đường xã hội chủ nghĩa, phái cải cách tự do hoá tư sản
nắm quyền hay phái cải cách xã hội chủ nghĩa nắm quyền, phụ thuộc vào đế quốc
Mỹ hay bảo vệ được độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia”. Phải xem tên Trương
Cần Đức này đại diện cho ý kiến của những người nào và đại diện đến mức nào.
Đây là một động hướng vô cùng nguy hiểm. Tính chất dã man, tàn khốc, chuyên chế
và không tưởng của Đại cách mạng văn hoá có thể phá hoại tan tành những gì hiện
có. Một khi dân chúng bị phái “tả” kích động, gửi gắm hy vọng tìm ra lối thoát
vào vong hồn Mao Trạch Đông, bộc lộ sự bất mãn của mình theo phương thức do Mao
dạy bảo, trương ngọn cờ Mao Trạch Đông mà nhà cầm quyền không dám phản đối, lôi
“phái cải cách tư bản chủ nghĩa” ra đấu tố, thì tình hình khó mà dàn xếp được.
Đây là ẩn hoạ lớn nhất ở Trung Quốc trong 10 năm tới. Chỉ có tiến hành cuộc cải
cách chính trị thật sự chứ không hời hợt, bao gồm cải cách ý thức hệ là cải
cách thể chế chính trị, mới có thể tránh được một đại hoạ mới. Không thực hiện
hiến chính dân chủ, sớm muộn sẽ bùng nổ cuộc Đại cách mạng văn hoá lần thứ hai.
Bài học lịch sử là không dễ gì
nắm bắt được thời cơ cải cách chính trị khi cho rằng mình có đủ lực lượng kiểm
soát tình hình, người cầm quyền thường ngoan cố cự tuyệt cải cách, hoặc chần
chừ, coi nhẹ, đến khi tình thế qua đi, mới nghĩ đến cải cách nhưng lúc đó khủng
hoảng đã bùng phát, họ không còn tư cách chủ đạo công cuộc cải cách chính trị
nữa, chỉ còn cách bị dòng thác lịch sử cuốn phăng. Chẳng hạn nửa cuối năm 1945
và nửa đầu năm 1946 là thời cơ của Quốc Dân Đảng Tưởng Giới Thạch. Nếu Tưởng
nắm lấy cơ hội hai đảng Quốc Cộng cùng bàn việc nước, không gây nội chiến, tiến
hành cải cách chính trị, từ bỏ một đảng độc tài, cùng Đảng Cộng sản tổ chức
Chính phủ Liên hợp, thì không đến nỗi bị đuổi khỏi Hoa lục, tình hình xấu nhất
là hai đảng luân phiên cầm quyền, và để tranh thủ cử tri, đảng nào cũng lo làm
việc tốt, chẳng bên nào dám làm bừa. Trung Quốc từ đó lập nên thể chế dân chủ
tuần hoàn tốt đẹp. Một ví dụ khác: năm 1961 là thời cơ của Lưu Thiếu Kỳ. Khi
ấy, Đại tiến vọt thất bại thảm hại, mấy chục triệu người chết đói, Mao Trạch
Đông mất hết thể diện trên thế giới và mất sạch lòng người trong nước, tại Đại
hội 7.000 người, lực lượng thúc giục hạ bệ Mao Trạch Đông từng có lúc chiếm đa
số. Đó là giờ phút Mao suy yếu nhất về chính trị, nếu Lưu Thiếu Kỳ thừa thế
triệu tập Đại hội 9, đoàn kết toàn đảng, triệt để thanh toán đường lối chủ
nghĩa xã hội không tưởng tổng kết bài học đau đớn mấy chục triệu người chết
đói, sắp xếp cho Mao một chức vụ danh dự để dưỡng lão, xoá bỏ thể chế chính trị
độc tài cá nhân, thực hiện hiến chính dân chủ, thì có thể đẩy chính sách cải
cách-mở cửa sớm lên 20 năm, đất nước tránh được một tai hoạ lớn, bản thân Lưu
cũng không đến nỗi đi đến một kết cục bi thảm như vậy. Lưu Thiếu Kỳ khi phải
quyết đoán lại không quyết, đợi đến khi Mao hoàn hồn, chuẩn bị phát động Đại
cách mạng văn hoá, Lưu mói nghĩ đến triệu tập Đại hội 9; và đến khi bị phái tạo
phản lôi ra đấu ở Trung Nam Hải, ông mới nghĩ đến hiến pháp.
Bởi vậy, một bước trọng đại phải
thực hiện trong khi có thời cơ là đánh giá lại Mao Trạch Đông. Tổ hợp chủ nghĩa
cơ hội “bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang phải” (đề cao ý thức hệ nhưng
chống lại chính sách kinh tế của Mao) có thế tạm yên ổn một thời, nhưng sớm
muộn sẽ lật xe. Các nhà lãnh đạo hiện nay cần biết rằng: các vị giương ngọn cờ
Mao Trạch Đông trong tĩnh vực ý thức hệ càng cao, thì “sai lầm” của các vị về
chính sách kinh tế càng lớn, phần “tả” về chính trị làm nổi bật phần “hữu” về kinh
tế. Thật sự lấy cái đúng, cái sai của Mao làm tiêu chuẩn đúng sai, thì các vị
là “phái theo con đường tư bản chủ nghĩa đang đi trên con đường tư bản chủ
nghĩa”. Đề cao Mao như vậy là vác đá ghè chân mình. Cần xác lập vị trí chính
thống của đường lối cải cách-mở cửa trong lĩnh vực ý thức hệ. Phái cải cách chỉ
có quyền hành chính không có quyền phát ngôn, là không được. “Quyền phát ngôn”
ở Trung Quốc ngày nay là quyền giải thích chủ nghĩa Mác. Kế thừa quyền giải
thích chủ nghĩa Mác của Mao Trạch Đông để cải cách-mở cửa, tất sẽ gặp muôn vàn
trở lực, làn sóng phản đối không dứt. Những người phản đối cải cách mở cửa nằm
ngoài chính quyền khí thế như hổ, những người cầm quyền chủ trì cải cách-mở cửa
lo ngại, thiếu tự tỉnh thế là đẻ ra sách lược “bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái
sang phải”. Chỉ có chính sách kinh tế cải cách-mở cửa mà không có ý thức hệ bảo
vệ chính sách đó thì không thể thành công, Lưu Thiếu Kỳ đã thất bại ở chỗ này.
Chính sách “ba tự, một bao” (đất phần trăm, thị trường tự do, tự chịu lỗ lãi, và
khoán sản tới hộ) của Lưu đã cứu vãn tình hình đang bên bờ vực thắm, cứu trăm
họ, cứu đất nước, nhưng lại trở thành chiếc vòng kim cô trên đầu ông, mắc phải
cái gọi là “sai lầm đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”. Còn “lãnh tụ vĩ đại”
được Lưu cứu giá đã niệm chú xiết chặt vòng kim cô trên đầu Lưu, đẩy ông vào
chỗ chết.
Nay những người kế thừa chính
sách “ba tự, một bao” tuy đã tiến hành cải cách-mở cửa rất thành công, nhưng
thường xuyên bị phê phán, ý thức hệ truyền thống coi họ là “phái cải cách tự do
hoá tư sản”. Việc cấp bách là phải khôi phục bộ mặt vốn có của lịch sử, nói rõ
với quần chúng nhất là thế hệ trẻ nguồn gốc sai lầm của chủ nghĩa xã hội không
tưởng Mao Trạch Đông, nhìn lại thời kỳ đại hoạ “tả” khuynh tác oai tác quái,
sinh linh lầm than, vạch trần chủ nghĩa Mác giả hiệu của Mao Trạch Đông, giành
lại quyền phát ngôn, khiến chủ nghĩa xã hội không tưởng của Mao Trạch Đông mất
sạch sức hấp dẫn ở Trung Quốc. Đó là tính toán mưu lược lâu dài, sâu xa của
Đặng Tiểu Bình khi ông để lại lời căn dặn một số năm sau phải đánh giá lại Mao.
Cuốn sách này phải hoàn thành nhiệm vụ lịch sử ấy.
Chúng tôi viết dưới hình thức
sinh động để mọi người cùng thưởng thức, khiến các chính khách đọc không cảm
thấy thô thiển, nông cạn, sinh viên đọc không thấy quá sâu xa. Các tài liệu và
sự kiện lịch sử đều có chứng cứ, nguồn gốc. Cuốn sách này là tác phẩm học thuật
nghiêm túc, xuất bản lần thứ 2 có thêm mấy trăm chú thích. Cuốn sách dài 70 vạn
chữ muốn dùng những sai lầm lịch sử của Mao Trạch Đông nhắc nhở đời sau: không
thể đi và cũng không đi nổi con đường chủ nghĩa xã hội không tưởng, “thiên
đường của chủ nghĩa cộng sản” không có giai cấp, không có bóc lột. không có áp
bức trong tưởng tượng là địa ngục trần gian đã làm chết đói 37,55 triệu người.
Đi bước này rồi mới có thể đánh bại tận gốc rễ những giáo điều cực tả thiêng
liêng bất khả xâm phạm, phái cải cách và đường lối của họ mới có thể thoát khỏi
trạng thái uốn éo trong điệu múa ương ca “bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang
phải” đứng vững trên đôi chân lịch sử.
Tôi năm nay ngoài 70 tuổi, đã
trải qua những năm tháng của chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Trung Quốc, từng
tham gia các phong trào chống phái hữu, ba cuộc cải tạo lớn, Đại tiến vọt và
Đại cách mạng văn hoá, làm công tác giảng dạy và nghiên cứu ở Học viện quân sự
cấp cao trong thời gian dài, hành trình tư tưởng bám sát Mao Trạch Đông, nếu
không, không thể trải qua bấy nhiêu cuộc vận động chính trị mà vẫn tồn tại. Mao
Trạch Đông là thần tượng của tôi thời trai trẻ, khi giảng dạy và viết bài, tôi
từng thật lòng cổ vũ sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông, cổ vũ chủ nghĩa xã hội
không tưởng mà ông ta thực hiện; thậm chí, tôi từng xuyên tạc chủ nghĩa Mác để
biện hộ cho sai lầm của Mao, coi đó là thiên chức của người làm công tác lý
luận, là tính đảng của người cộng sản.
Trong làn sóng cuồng nhiệt ca
ngợi Mao cũng có bọt nước của tôi. Trên ý nghĩa đó, tôi cũng có phần trách
nhiệm đối với sai lầm của Đảng. Xuất phát từ trách nhiệm ấy, tôi sẵn sàng kể
với thế hệ sau lịch sử chân thực mình đã trải qua, mong họ đừng cuồng nhiệt như
tôi hồi trẻ. Đánh giá lại Mao Trạch Đông sẽ là một đề tài lớn trong thế kỷ 21.
Nhiều hồ sơ lịch sử về những sự kiện trọng đại chưa được giải mật, đó là hạn
chế lịch sử mà cuốn sách này không có cách nào vượt qua, khó tránh khỏi những
sai sót về sử liệu và bình luận không thoả đáng, hoan nghênh bạn bè chỉ giáo,
để những ý kiến thô thiển của tôi đổi được những lời vàng ngọc.
TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét