![]() |
Việt Nam có chủ quyền không thể chối cãi với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Ảnh: VTC |
LTS: Không thể đem một luận thuyết lạc hậu, không được quốc tế công nhận để chứng minh chủ quyền. Trung Quốc đang cố làm những điều sai trái. Sai trái chồng sai trái khi họ cố tình chứng minh chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam thuộc về họ.
Loạt bài 5 kỳ viết về vấn đề này sẽ làm
sáng tỏ lý lẽ của Việt Nam và sự đuối lý của Trung Quốc.
Kỳ 3: Hoàng Sa, Trường Sa chưa từng
thuộc về Trung Quốc
Để bác lại các quan điểm trong tuyên bố của Bộ
Ngoại giao và các học giả Trung Quốc, từ rất lâu, Tiến sĩ Trần Công Trục và các
học giả Việt Nam đã dày công nghiên cứu về sự sai trái, các tham vọng của Trung
Quốc. Ông Trục chỉ rõ, tham vọng của Trung Quốc đang mâu thuẫn bởi chính các
nguồn tư liệu của nước này.
“Chỗ
đó của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa?”
Theo
đó, có nhiều tài liệu địa lý cổ mô tả và nói rõ lãnh thổ của nước này có điểm
tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam. Trong đó, đáng chú ý là cuốn Địa chí phủ
Quỳnh Châu cũng như cuốn Địa chí tỉnh Quảng Đông năm 1731. Điều này cũng được
ghi trong Hoàng triều nhất thống Dư địa tổng đồ, phát hành năm 1894. Ngoài ra,
quyển sách Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư, phát hành năm 1906 nêu ở trang
241 rằng: “điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở
vĩ tuyến 18o13’ Bắc”.
Tiến
sĩ Trục hết sức tâm đắc với nhận xét của bà Monique Chemillier Gendreau, giáo
sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot,
nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu
Âu, rằng: Người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo
mọc rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng,
Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần
đảo này.
Ông
Trục cũng nhấn mạnh, không chỉ thế giới, mà chính người Trung Quốc chân chính
cũng đưa ra nhận xét về “chủ quyền lịch sử” Trung Quốc. Giáo sư Lý Lệnh Hoa ở
Trung tâm Thông tin hải dương Trung Quốc, có bút danh là “Bao Phác Tiên Nhân”,
khi nói đến sự sai trái, trái pháp luật quốc tế từ phía Trung Quốc cũng nhấn
mạnh: "Chúng ta thường thích nói một câu là: Từ xưa đến nay thế này thế
nọ, có lúc hứng lên còn thêm vào hai chữ “thiêng liêng”. Đó chính là cái gọi là
chứng cứ lịch sử…, nhưng chứng cứ đó có ý nghĩa ngày càng nhỏ trong luật quốc
tế hiện đại…, chứng cứ thật sự có sức thuyết phục chính là sự kiểm soát thực
sự. Anh nói chỗ đó của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa, người ở đó có phục
tùng sự quản lý của anh không, có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu
đáp án của những câu hỏi này đều là “có” thì anh thắng là điều chắc chắn. Ở Nam
Sa, chúng ta không có được điều đó”.
Câu
hỏi của Giáo sư Lý Lệnh Hoa chắc hẳn sẽ khiến nhà chức trách Trung
Quốc rất khó trả lời.
Không ai có thể thay đổi sự thật
Vậy
nguyên tắc pháp lý mà Việt Nam dựa vào để chứng minh và khẳng định Việt Nam
hoàn toàn có chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là gì? Có phù
hợp với luật pháp quốc tế không?
Tiến
sĩ Trục cho biết: “Việt Nam hoàn toàn đúng. Phương thức thụ đắc lãnh thổ của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là theo nguyên tắc
chiếm hữu thật sự. Việt Nam đã chính thức tuyên bố rằng: Nhà nước Việt Nam là
nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối
với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, khi chúng còn là đất vô chủ, ít
nhất là từ thế kỷ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thật sự,
liên tục, hòa bình và rõ ràng. Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý và chứng cứ
lịch sử có giá trị pháp lý để khẳng định và bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình,
đáp ứng đủ những điều kiện mà nguyên tắc chiếm hữu thật sự đòi hỏi”.
Tiến
sĩ Trục khẳng định: Nhà nước phong kiến Việt Nam suốt trong 3 thế kỷ, từ thế kỷ
XVII đến cuối thế kỷ XIX, trải qua 3 triều đại khác nhau, đều đã thực hiện sứ
mệnh thiêng liêng của mình, với tư cách là Nhà nước Đại Việt, tiến hành chiếm
hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường
Sa:
Trước
tiên, Nhà nước Đại Việt thời chúa Nguyễn. Chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý
chứng minh việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa là sự ra đời và hoạt động thường xuyên, liên tục của
Đội Hoàng Sa, một tổ chức do nhà nước lập ra để đi quản lý, bảo vệ, khai thác
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đội Hoàng Sa, về sau lập thêm Đội Bắc Hải
do Đội Hoàng Sa kiêm quản, đã hoạt động theo lệnh của 7 đời chúa, từ chúa
Nguyễn Phúc Lan hay Nguyễn Phúc Tần cho đến khi phong trào Tây Sơn nổi dậy.
Nhà
nước Đại Việt thời Tây Sơn: Trong thời gian từ năm 1771 đến 1801, gần như lúc
nào cũng có chiến tranh, trên đất liền cũng như ngoài Biển Đông. Tuy nhiên, các
lực lượng của Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh, Tây Sơn đã làm chủ được từng khu vực
lãnh thổ thuộc phạm vi quản lý của mình. Từ năm 1773, Tây Sơn chiếm được cảng
Quy Nhơn, tiến về phía Quảng Nam, kiểm soát đến Bình Sơn, Quảng Ngãi, nơi có
cửa biển Sa Kỳ và Cù lao Ré, căn cứ xuất phát của Đội Hoàng Sa.
Năm
1775, Phường Cù lao Ré thuộc xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi đã nộp đơn
xin cho phép Đội Hoàng Sa và Đội Quế Hương hoạt động trở lại theo thông lệ. Năm
1778, Nguyễn Nhạc xưng Hoàng đế, chính quyền Tây Sơn được củng cố một cách hoàn
chỉnh và năm 1786, đã ra quyết định sai phái Hội Đức hầu, cai đội Hoàng Sa, chỉ
huy 4 chiếc thuyền câu vượt biển ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ như cũ. Ngoài ra còn
có các đội Quế Hương, Đại Mạo, Hải Ba cũng được giao nhiệm vụ hoạt động trong
Biển Đông.
Nhà
nước Việt Nam thời nhà Nguyễn tiếp tục sử dụng Đội Hoàng Sa, Đội Bắc Hải làm
nhiệm vụ khai thác và bảo vệ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 7-1803,
vua Gia Long cho lập lại Đội Hoàng Sa: Lấy cai cơ Võ Văn Phú làm thủ ngự cửa
biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm Đội Hoàng Sa (theo Đại Nam Thực lục
chính biên đệ nhất kỷ, quyển 12). Tháng Giêng năm Ất Hợi (1815) vua Gia Long
quyết định: Sai Phạm Quang Ảnh thuộc Đội Hoàng Sa ra Hoàng Sa xem xét đo đạc
thủy trình…(Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, q.50, tờ 6a).
Sang
đời Minh Mạng, việc đo đạc thủy trình chủ yếu giao cho thủy quân thực hiện…
Những năm 1833, 1834, 1836, vua Minh Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công phái người ra
Hoàng Sa để dựng bia chủ quyền, đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ…: Mỗi thuyền vãng
thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc. Vua Minh
Mạng đã chuẩn y lời tâu của Bộ Công sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa
binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc…
Tiến
sĩ Trục khẳng định, như vậy là suốt từ thời chúa Nguyễn đến thời nhà Nguyễn,
Đội Hoàng Sa, kiêm quản Đội Bắc Hải, đã đi làm nhiệm vụ quản lý nhà nước đối
với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Những hoạt động này đã được các
văn bản nhà nước ghi nhận, như: Châu bản của triều đình nhà Nguyễn, các văn bản
của chính quyền địa phương như tờ lệnh, tờ tư, bằng cấp… hiện đang được lưu trữ
tại các cơ quan lưu trữ nhà nước.
Cũng
theo sự phân tích của ông Trục, trong giai đoạn lịch sử này, có một chứng cứ
hết sức quan trọng không thể không đề cập đến khi chứng minh nhà nước phong kiến
Việt Nam đã quản lý thật sự, hiệu quả đối với hai quần đảo này, đó là việc tổ
chức đơn vị hành chính của Hoàng Sa trong hệ thống tổ chức hành chính của nhà
nước lúc bấy giờ. Thời chúa Nguyễn, Hoàng Sa thuộc Thừa tuyên Quảng Nam hay
Quảng Nghĩa (Ngãi), lúc là phủ, khi thì là trấn.
NGUYỄN HÒA (ghi)
KỲ 4: Cộng đồng quốc tế đã công nhận sự quản lý của Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét