TIN NÓNG HOÀNG SA-TRƯỜNG SA, BIỂN ĐÔNG (VIỆT NAM)

Thứ Năm, 19 tháng 1, 2017

Vì sao miền Bắc Việt Nam im lặng sau hải chiến Hoàng Sa?

(TNBĐ) -
“Chúng ta không thể dùng nguyên tắc “im lặng là đồng ý” để giải thích hành vi của Hà Nội trong trận hải chiến Trung Quốc – Nam Việt Nam. Sự thụ động tạm thời của Bắc Việt phản ánh tính toán chiến thuật chứ không mang tính chiến lược hay pháp lý… Ngay sau khi chính quyền Thiệu sụp đổ, Bắc Việt không ngần ngại kêu đòi Hoàng Sa”.
    • Ngay khi Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa ngày 19/1/1974, chính quyền Sài Gòn lập tức họp báo tố cáo Bắc Kinh vi phạm chủ quyền của Việt Nam và yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc cử ủy ban đặc biệt tới kiểm tra hành động xâm lược và chiếm đóng của Bắc Kinh. Nhân dân Việt Nam ở miền Nam rầm rộ xuống đường phản đối Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa.
Tàu cá vũ trang Trung Quốc cản mũi tàu chiến của VNCH tiến vào Hoàng Sa. Ảnh tư liệu báo Tuổi trẻ.
Tàu cá vũ trang Trung Quốc cản mũi tàu chiến của VNCH tiến vào Hoàng Sa. Ảnh tư liệu báo Tuổi trẻ.
Sau khi cho quân lén lút chiếm đóng trái phép nhóm phía đông của quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956, ngày 15/1/1974 Trung Quốc lại cho tàu cá chở quân lính giả dạng ngư dân đổ bộ lên chiếm một số đảo thuộc nhóm phía tây, rồi tăng cường lực lượng lên 11 tàu chiến. Nhận thấy tình hình bất ổn, Tư lệnh Hải quân Vùng 1 duyên hải của quân đội Sài Gòn liền điều các tuần dương hạm và hộ tống hạm tức tốc tiến ra Hoàng Sa.
Cuộc đọ súng dữ dội xảy ra trong khoảng 30 phút sáng ngày 19/1/1974 (tức 27 tết). Nhiều chiến sĩ trong quân đội Sài Gòn đã phải vĩnh viễn nằm lại trong khi cố bảo vệ sự toàn vẹn biển đảo của Tổ quốc Việt Nam; 2 tàu HQ-4 và HQ-5 đều trúng đạn; HQ-16 bị hư hại nặng phải dần rút khỏi vòng chiến. HQ-10 là tàu nhỏ nhất bị chìm. Tuy cũng bị tổn thất với 4 tàu bị bắn hỏng và nhiều lính chết, nhưng Trung Quốc đã cưỡng chiếm được toàn bộ phần còn lại của quần đảo.
Sớm nhận biết diễn biến thái độ của phía Trung Quốc đối với Việt Nam kể từ chuyến thăm nước này của Tổng thống Mỹ – Richard Nixon ngày 27/2/1972 và việc Mỹ bỏ rơi chính quyền Sài Gòn trong sự kiện Hoàng Sa (19/1/1974), trong thư gửi đồng chí Phạm Hùng (tháng 10/1974), Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nói rõ nhận định của Bộ Chính trị là “người ta đã mặc cả với nhau” về Việt Nam.
Đấy cũng là một trong những lý do Bộ Chính trị quyết định phải giải phóng miền Nam chỉ trong hai năm 1975 – 1976, sau rút xuống chỉ trong năm 1975, rồi chỉ còn trong tháng 4/1975, trước mùa mưa, vì: “Thời cơ này đòi hỏi phải làm nhanh, làm gọn, làm triệt để, nhưng phải khôn khéo. Có như thế mới tạo được bất ngờ”.
Âm mưu
Sau hành động cưỡng chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực của nhà cầm quyền Trung Quốc, các học giả của nước này cố công tìm kiếm sách cổ, lượm lặt mọi chi tiết dù mơ hồ nhưng có liên quan đến biển Đông để nặn ra bằng chứng về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam).
Nhưng dù có cố gắng mấy đi nữa, Trung Quốc cũng không thể chứng minh được chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa. Vì về mặt bằng chứng lịch sử, các nguồn thư tịch của Trung Quốc tính cho đến cuối thế kỷ XIX và thậm chí cả những năm đầu thế kỷ XX đều phản ánh một thực tế hiển nhiên, xác thực, rõ ràng, không thể phản bác là vùng lãnh thổ, lãnh hải truyền thống của nước này chưa giờ vượt quá đảo Hải Nam. Trong khi đó, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa.
Trung Quốc đang muốn dựa vào thời gian để một mặt chứng tỏ sự chiếm đóng liên tục, lâu dài của mình đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa (kể từ năm 1974 trở đi) và cũng tìm mọi cách ngăn cản sự có mặt của Việt Nam trên vùng biển đảo này, ngõ hầu qua đó cho rằng Việt Nam đã từ bỏ chủ quyền. Nhưng họ đã không thể nào thực hiện được ý đồ của mình.
Bởi lẽ, Điều 2 của Hiến chương Liên hiệp quốc đã nói rõ, một hành vi xâm chiếm hay chinh phục không thể được coi là nguồn gốc tạo ra chủ quyền hay thay thế chủ quyền đã có trước đó. Nghị quyết 2625 của Đại hội đồng Liên hiệp quốc ngày 24/10/1970 cũng nhắc lại việc cấm sử dụng vũ lực như một phương tiện giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và mọi sự thụ đắc lãnh thổ có được bằng sự đe dọa hoặc sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp.
Mặt khác, dù tạm thời bị mất yếu tố vật chất nhưng Việt Nam không bao giờ từ bỏ yếu tố tinh thần là ý chí về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Ngay khi Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo ngày 19/1/1974, chính quyền Sài Gòn lập tức họp báo tố cáo Bắc Kinh vi phạm chủ quyền của Việt Nam và yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc cử ủy ban đặc biệt tới kiểm tra hành động xâm lược và chiếm đóng của Bắc Kinh. Nhân dân Việt Nam ở miền Nam rầm rộ xuống đường phản đối Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa.
Im lặng không phải là đồng ý
Bấy giờ, do ở vào thời điểm nhạy cảm phải tập trung toàn lực cho giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, và cũng do theo điều khoản của Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 các quần đảo phía nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền tài phán của chính quyền Nam Việt Nam nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa không lên tiếng công khai. Chỉ có Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra tuyên bố khẳng định: Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là một vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc; vấn đề biên giới và lãnh thổ là vấn đề mà giữa các nước láng giềng thường có những tranh chấp do lịch sử để lại; các nước liên quan cần xem xét vấn đề này trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt và phải giải quyết bằng thương lượng.
Như vậy, về mặt phát ngôn ngoại giao, tuyên bố này cũng được hiểu là khẳng định chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia; đồng thời phản đối việc Trung Quốc sử dụng vũ lực cưỡng chiếm Hoàng Sa.
Tiến sĩ Balazs Szalontai, từng dạy ở Đại học Khoa học công nghệ Mông Cổ và hiện là một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary, trong bài viết “Im lặng nhưng không đồng tình” đăng trên trang web của Đài BBC vào tháng 3/2009 cho rằng “thời điểm Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa cho thấy Bắc Kinh muốn hành động trước khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ – tức là trước khi Hà Nội có thể giành lấy các hòn đảo”. Ông cũng cho rằng, với tài liệu mà mình tìm thấy được từ Kho Lưu trữ quốc gia Hungary, sau vụ xâm chiếm của Trung Quốc, các cán bộ ngoại giao của miền Bắc nói với các nhà ngoại giao Hungary rằng Việt Nam có nhiều văn bản chứng minh chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa; xung đột giữa Trung Quốc với chính thể Sài Gòn chỉ là tạm thời, còn sau đó sẽ là vấn đề cho cả quốc gia Việt Nam. Và, “Khác với Bắc Kinh, Hà Nội không hề xem vụ việc đã khép lại.
Một Vụ trưởng của Bộ Ngoại giao Bắc Việt nói với Hungary rằng chính phủ miền Bắc dự tính sẽ họp với Trung Quốc để làm rõ vấn đề”. Từ những dẫn chứng này, Balazs Szalontai đi đến nhận định: “Chúng ta không thể dùng nguyên tắc “im lặng là đồng ý” để giải thích hành vi của Hà Nội trong trận hải chiến Trung Quốc – Nam Việt Nam. Sự thụ động tạm thời của Bắc Việt phản ánh tính toán chiến thuật chứ không mang tính chiến lược hay pháp lý… Ngay sau khi chính quyền Thiệu sụp đổ, Bắc Việt không ngần ngại kêu đòi Hoàng Sa”.
Hoàng Sa là của Việt Nam
Đúng như vậy, chỉ 5 tháng sau ngày giải phóng miền Nam, đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và Nhà nước Việt Nam do Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn dẫn đầu sang thăm Trung Quốc, và trong hội đàm với Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình ngày 24/9/1975 đã đặt vấn đề phải giải quyết về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Nửa tháng sau (10/11/1975), Bộ Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Từ đó đến nay, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam liên tục khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo này, như công bố sách trắng “Các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế”, phản đối mọi lời tuyên bố chủ quyền và những hoạt động của Trung Quốc trên quần đảo; tăng cường công tác quản lý hành chính đối với quần đảo Hoàng Sa bằng việc thành lập huyện đảo vào ngày 9/12/1982 thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, sau đó đặt dưới quyền quản lý của TP. Đà Nẵng kể từ ngày 1/1/1997. Đồng thời, Nhà nước không ngừng thực hiện các hoạt động đấu tranh pháp lý, ngoại giao và trên mặt trận tuyên truyền nhằm khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa.
Nhìn lại lịch sử, sau 1.000 năm mất nước (43 – 938) người Việt Nam vẫn khôi phục được “nghiệp xưa họ Hùng”, bởi trong suốt 1.000 năm đó người Việt không hề mất ý chí về chủ quyền đất nước, và 1.000 năm Bắc thuộc cũng đồng thời là 1.000 năm chống Bắc thuộc. Điều đó cho chúng ta vững tin rằng, dù giải quyết vấn đề Hoàng Sa không thể một sớm một chiều, nhưng chắc chắn sẽ có ngày chúng ta thực hiện được sự quản lý thực sự trên quần đảo này.
Còn với Trung Quốc, tuy đã chiếm đóng Hoàng Sa suốt 40 năm qua, nhưng vẫn mãi mãi không thể nào có được một tư cách hợp pháp đối với vùng lãnh thổ cưỡng chiếm bằng vũ lực. Ferrier Jean Pierre tại trường Đại học Luật kinh tế và khoa học xã hội ở Paris thẳng thừng chỉ ra rằng: “Đó là hành động vi phạm trắng trợn các quy tắc ngăn cản việc dùng vũ lực và việc xâm chiếm lãnh thổ bằng vũ lực… Việc xâm chiếm này về nguyên tắc là phi pháp”.
Monique Chemillier – Gendreau, Chủ tịch Hội Luật gia châu Âu cũng căn cứ vào Điều 2, khoản 4 của Hiến chương Liên hiệp quốc khẳng định: “Sự chinh phục bằng vũ lực kéo theo một tình trạng chiếm đóng quân sự luôn luôn là trái phép và sự chiếm đóng quân sự này, trừ khi có một thỏa thuận giữa các quốc gia liên quan, không thể tự chuyển thành quyền, dù có thời gian dài”. TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

Con trai cố Tổng Bí thư Lê Duẩn nói về âm mưu của Trung Quốc.

(TNBĐ) - Thiếu tướng Lê Kiên Trung, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an (Con trai của Tổng bí thư Lê Duẩn) đã có những chia sẻ thẳng thắng về âm mưu của Trung Quốc trong cuộc đấu tranh giải phóng Miền Nam. BBT chúng tôi xin trích đăng.
Chúng ta không được phép sợ Trung Quốc
- Tôi từng nghe kể TBT Lê Duẩn đã báo cáo với Bác Hồ: “Chúng ta muốn thắng Mỹ thì nhất định không được sợ Mỹ, nhất định không sợ Trung Quốc, nhất định không được sợ Liên Xô…”? Anh có nghĩ ba mình là người cứng rắn, khi ông không bao giờ sợ các nước lớn?
Ba tôi không sợ Mỹ, vì ông hiểu Việt Nam có thể thắng Mỹ. Còn chuyện không sợ Trung Quốc là một câu chuyện dài.
Ba tôi là người yêu thích lịch sử. Ông đọc đi đọc lại những câu chuyện về lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Và vì thế, ông biết, trong những cuộc chiến tranh kéo dài suốt mấy nghìn năm đất nước tồn tại, ngoài hai lần chống Pháp và Mỹ, lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam là lịch sử chống quân xâm lược từ phương Bắc kéo xuống.
Và dù trong thời gian ngắn hay dài, thì cuối cùng, chúng ta cũng đều đánh đuổi được giặc ngoại xâm phương Bắc. Dân tộc này trong lịch sử chưa từng sợ phương Bắc, và tôi nghĩ ba tôi thấm nhuần truyền thống ấy.
Từ khi còn rất sớm, ba tôi đã nhận ra, dù họ viện trợ cho chúng ta rất nhiều, dù tiếng là hai nước Cộng sản anh em, thì họ vẫn mang những ý đồ không khác gì những triều đại trước đây.
Ngay cả trong các cuộc gặp với ba tôi, một lãnh đạo của bạn đã nói: “Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Các đồng chí không cần làm cách mạng, tôi là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á”.
Khi nghe câu nói đó ba tôi đã cảm nhận ra ngay ý đồ của họ và dặn lòng mình luôn phải cảnh giác với dã tâm ấy. Ba tôi từng viết về một cuộc đối thoại giữa ông và một lãnh đạo của họ (xin phép không nói rõ tên của nhà lãnh đạo đó - xin đổi là ông ta - PV) như thế này:
“Ông ta hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
Tôi (Lê Duẩn) trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.
Ông ta hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?
Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!
Ông ta nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!
Ông ta hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
Ông ta hỏi: Có bao nhiêu người?
Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
Ông ta nói: Một tỉnh của nước tôi có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!
Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?”. Tôi nói: “Đúng”. Ông ta hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?”. Tôi nói: “Đúng”. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?”. Tôi nói: “Đúng, và cả các ông nữa. Nếu các ông tìm cách xâm lược đất nước tôi. Các ông có biết điều đó không?...”.
Vì nhận thức được ý đồ của họ, cũng như các tiền nhân, nên trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đảng ta và ba tôi cũng giữ tinh thần cảnh giác, ngay cả khi họ là nước viện trợ rất lớn cho chúng ta trong kháng chiến chống Mỹ.
Có lần, họ đề nghị viện trợ cho chúng ta 500 xe tải chi viện cho tuyến đường Trường Sơn, với điều kiện họ sẽ cử lái xe đi kèm. 500 xe hồi đó là vô cùng quý giá với Việt Nam. Nhưng chúng ta đã kiên quyết từ chối.
Khi đó có đồng chí lãnh đạo đề nghị ba tôi “nhận vài chiếc cho người ta vui”, nhưng ba tôi và lãnh đạo không đồng ý. Ba tôi cũng báo cáo với Bác Hồ: “Chúng ta muốn thắng Mỹ, thì không được sợ Mỹ, nhưng nhất định cũng không được sợ Trung Quốc”. Câu nói ấy của ông hẳn đã đến tai người Trung Quốc…
Anh: THiếu tướng Lê Kiên Trung- Con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2016

Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – Nguyên nhân và giải pháp (Phần 6- phần cuối)

PHẦN 6 - PHẦN CUỐI

F- SỰ THỰC VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA, TRƯỜNG SA VÀ GIẢI PHÁP BỀN VỮNG CHO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA, BIỂN ĐÔNG
Như trên đã trình bày, Trung Hoa khi bắt đầu khảo sát Tây Sa vào năm 1909 đã cho rằng Tây Sa là vô chủ. Năm 1898, chính quyền Quảng Châu, Trung Hoa đã trả lời các khiếu nại của Công sứ Anh ở Bắc Kinh về việc những người Trung Hoa ở Hải Nam cướp phá các tàu Bellona của Đức (bị đắm năm 1895) và tàu Humeji- Maru của Nhật (bị đắm năm 1896) do Công ty Bảo hiểm người Anh bảo hiểm, rằng: “quần đảo Tây Sa là những ḥòn đảo bị bỏ rơi, chúng không phải sở hữu của cả Trung Hoa lẫn An Nam, cũng không sáp nhập về hành chánh vào bất kỳ quận nào của Hải Nam và không có nhà chức trách nào chịu trách nhiệm về cảnh sát của chúng”. [Monique Chemillier - Gendreau, sđd, p.158].
Đến khi Pháp bắt đầu đưa ra những bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam, Trung Hoa hồi đó và Trung Quốc bây giờ lại luôn luôn nói rằng Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam Sa (tức Trường Sa) đã thuộc về Trung Quốc từ lâu, bất khả tranh nghị, khi thì nói từ đời Minh, khi thì nói từ đời Tống. Sự thực thế nào?
Sự thực là quần đảo Hoàng Sa không hề là vô chủ như luận điểm của chính quyền Trung Hoa năm 1909: Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời, từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long), Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, không ít ỏi như thư của Toàn Quyền Pasquier gửi cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc địa ngày 18-10-1930, mà đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng.
Thời kỳ Đại Việt, từ thời kỳ Nam Bắc phân tranh và thời Tây Sơn, nguồn tư liệu về Hoàng Sa hầu như chỉ còn lại tư liệu của chính quyền họ Trịnh ở Bắc Hà, chủ yếu là “Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư”, “Toản tập An Nam lộ” trong sách “Thiên hạ bản đồ”, trongHồng Đức bản đồ năm 1686 và Phủ biên tạp lục năm 1776 của Lê Quý Đôn.
Trong “Thiên Nam tứ Chí lộ đồ thư” hay “Toản tập An Nam lộ”, năm 1686 có bản đồ là tài liệu xưa nhất, ghi rõ hàng năm họ Nguyễn đưa 18 chiến thuyền đến khai thác ở bãi Cát Vàng. Còn tư liệu trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, năm 1776 là tài liệu cổ, mô tả kỹ càng nhất về Hoàng Sa, quyển 2 có hai đoạn văn đề cập đến việc Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền của Đại Việt tại Hoàng Sa bằng hoạt động của Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải.
Sang thời kỳ triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1909, có rất nhiều tài liệu chính sử minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
- “Dư địa chí” trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1821) và sách Hoàng Việt địa dư chí (1833). Nội dung về Hoàng Sa của hai cuốn sách trên có nhiều điểm tương tự như trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cuối thế kỷ XVIII.
Đại Nam thực lục phần Tiền biên, Quyển 10 (soạn năm 1821, khắc in năm 1844) tiếp tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.
Đại Nam thực lục chính biên Đệ nhất kỷ (khắc in năm 1848); Đệ nhị kỷ (khắc in xong năm 1864); Đệ tam kỷ (khắc in xong năm 1879) có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Tài liệu rất quí giá, là châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện đang được lưu trữ tại kho lưu trữ trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như Bộ Công, và các cơ quan khác hay những dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc… Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có chỉ đình hoãn kỳ vãng thám, sau đó lại tiếp tục.
- Trong bộ sách Đại Nam nhất thống chí (1882 soạn xong, 1910 soạn lại lần hai và khắc in) xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục khẳng định hoạt động đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản…
Ngoài ra các bản đồ cổ của Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam.
Đặc biệt nhất sự kiện năm 1836 Vua Minh Mạng sai Suất đội thủy binh Phạm Hữu Nhật, người gốc đảo Lý Sơn chỉ huy thủy quân đi cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, sau đó thành lệ hàng nămĐại Nam thực lục chính biên Đệ nhị kỷ, Quyển 165 cũng đã chép rất rõ từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu vua hàng năm cử người ra Hoàng Sa ngoài việc đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ và còn cắm cột mốc, dựng bia. Châu bản tập tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng 17 (1836) với lời châu phê của vua Minh Mạng cũng đã nêu rất rõ: “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc.
Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhị kỷ, quyển 6 còn ghi rõ : “Vua Minh Mạng đã y theo lời tâu của Bộ Công sai Suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc. Mỗi bài gỗ dài 5 thước rộng 6 tấc và dày 1 tấc, mỗi bài khắc những chữ: “Minh Mạng thập thất niên Bính Thân thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương đồ chí thử hữu chí đẳng tư (tờ 25b)”.
(Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ).
Vì sự kiện trên đã thành lệ hàng năm, nên Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (1851), Quyển 207, tờ 25b-26a và Quyển 221 đã chép lại việc dựng miếu, dựng bia đá, cắm cột mốc năm 1836 và lệ hàng năm phái biền binh thủy quân đi vãng thám, vẽ bản đồ…
Về những tư liệu của Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người ta thấy:
Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Trong Quyển 3 của Hải ngoại kỷ sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.
- Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa không thuộc về Trung Quốc.
Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực Nam của biên giới phía Nam của Trung Quốc.
Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1/1974, nhiều đoàn khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Trung Quốc, trái lại họ lại phát hiện ở mặt Bắc ngôi miếu “Hoàng Sa tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée) bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.
Về những tư liệu Phương Tây cũng xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
- Nhật Ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam.
Le Mémoire sur la Cochinchine của Jean Baptiste Chaigneau (1769 – 1825) viết vào những năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đã khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels.
Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes của Giám mục Taberd xuất bản năm 1833 cho rằng Hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa năm 1816.
An Nam đại quốc họa đồ của Giám mục Taberd xuất bản năm 1838, phụ bản của cuốn từ điển La tinh – Annam, ghi rõ «Paracels seu Cát Vàng» với tọa độ rõ ràng như hiện nay chứ không phải như Trung Quốc cho là ven bờ biển. («Seu» tiếng la tinh có nghĩa «hay là», Cát Vàng: chữ nôm, Hoàng Sa: chữ Hán).
The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol VI đã đăng bài của Giám mục Taberd xác nhận vua Gia Long chính thức giữ chủ quyền quần đảo Paracels.
The Journal of the Geographycal Society of London (năm 1849) GutzLaff ghi nhận chính quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở Paracels.
Về sau Trung Hoa đưa ra những bằng chứng ngụy tạo nói ngược lại luận điệu ban đầu xem là đất vô chủ (1909) mà cho rằng Tây Sa đã thuộc Trung Quốc từ lâu. Ngay tên Tây Sa và Nam Sa cũng mới đặt từ sau năm 1907, và Nam Sa lại bất nhất khi chỉ Trung Sa, khi chỉ Nam Sa ở vị trí hiện nay (Spratleys).
Sự thực chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa đã rõ ràng như trên. Khi bị Trung Hoa xâm phạm, vào thời điểm ban đầu, với tư cách là người đến xâm chiếm thuộc địa, người Pháp chưa hiểu hết lịch sử chủ quyền lãnh thổ Việt Nam nên có lúc đã không lên tiếng bảo vệ kịp thời. Tuy nhiên, không lâu sau đó, chính quyền thực dân Pháp đã có đủ thông tin và thay đổi quan điểm, bảo vệ chủ quyền cho Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự thực là bất cứ chính quyền nào, kể cả chính quyền thuộc địa chịu trách nhiệm về quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Nguyên nhân chủ yếu khiến cho Trung Quốc tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa chính là Việt Nam đã bị Pháp đô hộ và chịu ảnh hưởng những biến động chính trị quốc tế cũng như quốc nội, nhất là từ thời chiến tranh lạnh và sau này và tham vọng bành trướng mở rộng lãnh thổ bằng vũ lực.
Sự thực lịch sử về chủ quyền và những hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự tranh chấp cùng nguyên nhân xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đã quá rõ ràng, nên giải pháp phải là “cái gì của César phải trả lại cho César”.
Bất kỳ chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào, dù khác chính kiến đều coi trọng việc lấy lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. Lịch sử đã chứng minh dù có hàng ngàn năm bị lệ thuộc rồi cũng có ngày với sự kiên cường, bất khuất, cuộc đấu tranh sẽ thành công. Đối với các nước Asean, trên cơ sở Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982, sẽ tương nhượng trong tinh thần hợp tác giữa các thành viên trong khối, đôi bên đều có lợi.
Việt Nam và Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông, đã có những bài học lịch sử quý giá. Việt Nam với truyền thống hàng ngàn năm luôn kiên quyết bảo vệ quyền độc lập tự chủ của mình, song luôn luôn tôn trọng nước đàn anh Trung Quốc, luôn theo truyền thống làm “phên dậu của Trung Quốc”, không bao giờ làm hại đến quyền lợi Trung Quốc.
Bất cứ giải pháp nào dựa vào sức mạnh như người Nhật đánh chiếm bằng vũ lực Hoàng Sa, Trường Sa năm 1938, 1939 cũng như Trung Quốc dùng võ lực năm 1974 chỉ mang tính nhất thời, không có giá trị pháp lý. Có đế quốc nào mạnh như đế quốc La Mã thời Cổ đại hay đế quốc Mông Cổ thời Trung đại, hay đế quốc Anh, Pháp thời cận đại, rồi có ngày cũng suy yếu, phải bỏ những lãnh thổ chiếm giữ bằng vũ lực.
Bất cứ giải pháp nào muốn vững bền phải dựa trên sự thực lịch sử, nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự trước tiên tại Hoàng Sa và Trường Sa từ lúc chưa có ai tranh chấp, và phải dựa vào trật tự thế giới hiện hành khi có Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 và những Nghị quyết của Liên hiệp quốc sau đó, cùng với Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982.
Mọi người kể cả người Trung Quốc phải thấy rõ sự thật lịch sử trên!
Việt Nam phải luôn luôn nhắc đi nhắc lại cho cả thế giới được biết rằng vụ Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa năm 1974, Trường Sa năm 1988 là trái phép hoàn toàn, trái với Hiến chương và các nghị quyết của Liên hiệp quốc. Không thể để cho Trung Quốc coi vụ chiếm đóng Hoàng Sa như đã xong. Khi nội lực Việt Nam chưa đủ mạnh thì dứt khoát không ký kết bất cứ một hiệp định nào gây sự thiệt hại cho Việt Nam.
Việc cần làm ngay là phải quảng bá rộng rãi lịch sử về chủ quyền của nhà nước Việt Nam đới với Hoàng Sa và Trường Sa, và xây dựng nội lực Việt Nam vững mạnh, đoàn kết hùng cường.
Cuộc đấu tranh đòi lại Hoàng Sa cho Việt Nam cũng như sự bảo toàn quần đảo Trường Sa là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định sẽ thành công cũng như Việt Nam đã từng giành được độc lập tự chủ dù bị phong kiến phương Bắc đô hộ hơn một ngàn năm.

HNNN
* Tiến sĩ Sử học, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.

Sự thực lịch sử về chủ quyền và những hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự tranh chấp cùng nguyên nhân xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đã quá rõ ràng, nên giải pháp phải là “cái gì của César phải trả lại cho César”. Bất kỳ chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào, dù khác chính kiến, đều coi trọng việc lấy lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. Lịch sử đã chứng minh dù có hàng ngàn năm bị lệ thuộc rồi cũng có ngày với sự kiên cường, bất khuất, cuộc đấu tranh sẽ thành công.

T.S. Nguyễn Nhã


- TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Loading...