TIN NÓNG HOÀNG SA-TRƯỜNG SA, BIỂN ĐÔNG (VIỆT NAM)

Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2014

(TNBĐ)- Phân tích: Mưu đồ của Bắc Kinh qua con đường tơ lụa trên biển

(TNBĐ) - "Con đường tơ lụa trên biển” không chỉ là mối đe dọa về an ninh và chủ quyền lãnh thổ đối với các nước láng giềng, nhất là các nước đang có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc ở Biển Đông mà còn là mối đe dọa đối với tự do, an ninh, an toàn hàng hải trên biển. 


Việc khôi phục lại “con đường tơ lụa trên biển” thời cổ đại vừa là tham vọng của những người lãnh đạo ở Bắc Kinh, vừa là biểu tượng cho chủ nghĩa dân tộc Đại Hán của Trung Quốc nên nó ẩn chứa rất nhiều điểm bất lợi cho các nước láng giềng xung quanh của Trung Quốc. Thực chất ý đồ của Trung Quốc trong ý tưởng xây dựng “con đường tơ lụa mới” trên biển là:
Một là, tạo ra một trật tự mới trên biển mà các nước, trước hết là các nước láng giềng ven biển đi theo một quỹ đạo do Trung Quốc điều hành và chi phối. Sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” nằm trong kế hoạch tổng thể “chuỗi ngọc trai” nhằm đưa Trung Quốc trở thành cường quốc biển và xa hơn là để cạnh tranh vị trí siêu cường của Mỹ.
Hai là, “con đường tơ lụa trên biển” là công cụ ngoại giao để chứng minh sự trỗi dậy hòa bình và thực thi chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc. Qua việc sử dụng “con đường tơ lụa trên biển”, Trung Quốc cố gắng tạo ra một hình ảnh mềm mại, thân thiện và hòa hữu cho sự trỗi dậy và mở rộng ảnh hưởng của mình.
Ba là, “con đường tơ lụa trên biển” tạo cơ hội cho Trung Quốc thúc đẩy chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” để khai thác các tài nguyên trên biển ở những khu vực mà “con đường tơ lụa trên biển” đi qua, nhất là nguồn năng lượng dầu, khí đáp ứng nhu cầu “khát” năng lượng của Trung Quốc.
Bốn là, sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” là để thực hiện mưu đồ về lãnh thổ và yêu sách biển đảo của Trung Quốc. Thực hiện thành công sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” sẽ tạo ra “danh chính, ngôn thuận” và điều kiện thuận lợi cho việc hiện diện ra các vùng biển của Trung Quốc, trước hết là khu vực Biển Đông, eo biển Malacca, Ấn Độ Dương, giúp cho Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng trên biển và tăng cường ảnh hưởng về quân sự trên biển.
Điều này sẽ làm thay đổi cán cân quyền lực trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Thông qua “con đường tơ lụa trên biển” Trung Quốc sẽ biến những khu vực biển không tranh chấp thành khu vực tranh chấp để thực hiện yêu sách về chủ quyền và quyền chủ quyền trên biển.
Đặc biệt, đối với Biển Đông, Trung Quốc đã từng đưa ra lập luận rằng trước đây, trong quá trình thực hiện “con đường tơ lụa” trong thời kỳ cổ đại con tàu của Trịnh Hòa đã “xác lập và thực thi chủ quyền” đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (của Việt Nam) để biện minh cho yêu sách về chủ quyền của họ. Trung Quốc sẽ tiếp tục sử dụng “con đường tơ lụa trên biển” mới để biện minh cho các hành động hung hăng ở Biển Đông làm cho tình hình Biển Đông nóng hơn và căng thẳng hơn.
Năm là, Trung Quốc sẽ sử dụng sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” để thực hiện chính sách chia để trị đối với các nước láng giềng. Có thể xuất hiện khả năng một số nước sẽ bị cuốn hút vào các lợi ích kinh tế trước mắt, sẵn sàng bỏ qua những vấn đề nguyên tắc và chuẩn mực của luật pháp quốc tế để ủng hộ cho sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” của Trung Quốc mà làm tổn hại đến lợi ích của các nước có tranh chấp về chủ quyền biển đảo với Trung Quốc. Mặt khác, không loại trừ khả năng Trung Quốc sẽ gia tăng sức ép và các hành động gây hấn với những nước không ủng hộ cho sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển”.
Sáu là, sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” của Trung Quốc được đưa ra còn nhằm mục tiêu đẩy Mỹ và các nước phương Tây ra khỏi khu vực. Sáng kiến này là nhằm đối trọng lại với chính sách “tái cân bằng chiến lược ở Châu Á – Thái Bình Dương” của Mỹ. Về mặt kinh tế, “con đường tơ lụa trên biển” là để chống lại Hiệp định kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) của Mỹ. Do vậy, có thể thấy “con đường tơ lụa trên biển” của Trung Quốc sẽ làm cho cuộc cạnh tranh, tranh giành ảnh hưởng ở khu vực giữa các nước lớn nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng gay gắt.
Một khi “con đường tơ lụa trên biển” được hình thành Trung Quốc sẽ tự đặt ra những luật lệ mới để ép buộc các nước khác phải tuân thủ; Trung Quốc sẽ hành động đơn phương bỏ qua luật pháp quốc tế. Tình hình thực tế ở Biển Đông thời gian qua đã chứng minh điều này. Nhìn từ góc độ này thì “con đường tơ lụa trên biển” không chỉ là mối đe dọa về an ninh và chủ quyền lãnh thổ đối với các nước láng giềng, nhất là các nước đang có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc ở Biển Đông mà còn là mối đe dọa đối với tự do, an ninh, an toàn hàng hải trên biển.
Mặc dù, Trung Quốc đang ráo riết thúc đẩy cho “con đường tơ lụa trên biển”, nhưng đến nay các nước phản ứng một cách hờ hững đối với sáng kiến. Nguyên nhân là do những hành động cứng rắn hiếu chiến của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông đang tạo ra mối lo ngại của các nước đối với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc bành trướng Đại Hán của những người cầm quyền ở Bắc Kinh. Những hành động gây hấn của Trung Quốc đã làm xói mòn hình ảnh của Trung Quốc, không còn ai tin vào cái gọi là “sự phát triển hòa bình” hay “chính sách hữu hảo với các nước láng giềng” của Trung Quốc.
Tình trạng mất lòng tin đã làm cho các nước phản ứng dè dặt trước sáng kiến này của Trung Quốc, thậm chí là cảnh giác bởi các nước đều nhận thấy đằng sau “con đường tơ lụa trên biển” là những mưu mô thâm hiểm của Trung Quốc. Chúng ta thấy rõ điều này qua phản ứng của các nước ASEAN đối với sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” của Trung Quốc.
Trung Quốc đã chính thức đưa ra tài liệu khái niệm về việc xây dựng “con đường tơ lụa trên biển tại cuộc họp các quan chức cao cấp (SOM) ASEAN – Trung Quốc, nhưng chưa được các nước ASEAN hưởng ứng. Mỹ tỏ rõ thái độ ngăn chặn Trung Quốc phát huy vai trỏ ảnh hưởng qua sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” thách thức vai trò của Mỹ ở khu vực.
Đối với Việt Nam, sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” là thách thức đối với chủ quyền biển đảo của Việt Nam vì con tàu của Trịnh Hòa thời cổ đại là một lập luận liên quan đến chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Xét một cách khách quan thì một số khía cạnh kinh tế trong “con đường tơ lụa trên biển” nếu được triển khai theo đúng tôn chỉ hợp tác kinh tế bình đẳng cùng có lợi thì sẽ mang lại những lợi ích chung cho các nước trong khu vực. Nhưng bản chất của những người cầm quyền ở Bắc Kinh là nói một đằng làm một nẻo và ý đồ thâm độc của họ là thông qua các hoạt động kinh tế để “trói buộc” các nước liên quan đi theo quỹ đạo do Bắc Kinh vạch ra.
Do vậy, Việt Nam cần hết sức tỉnh táo, cảnh giác với sáng kiến này. Trong bối cảnh hội nhập toàn diện, Việt Nam có thể lựa chọn một số lĩnh vực hợp tác trong khuôn khổ sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” để tham gia hợp tác. Kiên quyết không chấp nhận cả gói về sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” của Trung Quốc.
Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với các nước liên quan đến tranh chấp Biển Đông khác trong ASEAN vạch rõ mưu đồ thâm hiểm của Trung Quốc trong “con đường tơ lụa trên biển” vận động các nước ASEAN khác không ủng hộ cho sáng kiến này của Trung Quốc mà chỉ có thể trao đổi vấn đề hợp tác đối với từng lĩnh vực cụ thể.
Việt Nam cũng cần vận dụng triệt để nguyên tắc “đồng thuận trong ASEAN” để bác bỏ sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” của Trung Quốc. Mặt khác, cần tranh thủ lôi kéo các nước ngoài khu vực như Mỹ, Nhật, Úc, Hàn Quốc, các nước Châu Âu… thông qua các chương trình, sáng kiến hợp tác ở khu vực để đối trọng lại với “con đường tơ lụa trên biển” của Trung Quốc.

 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Năm, 24 tháng 7, 2014

TNBĐ)- Năm 1898, TQ tuyên bố “Hoàng Sa là đất hoang, không thuộc Hải Nam“

(TNBĐ) - Năm 1898, quan kinh lược Quảng Đông, Trung Quốc tuyên bố Hoàng Sa là đất hoang, không thuộc về Trung Hoa, không liên quan với chính quyền huyện Hải Nam nên không chịu bồi thường cho chủ 2 tàu buôn của Hà Lan vì tội hôi của. Chi tiết này cùng tấm bản đồ nổi tiếng thủ tướng Đức A. Merkel tặng ông Tập Cận Bình được nhắc lại trong bài viết “Vietnam Flays China’s position on south china sea” của Tiến sĩ Rajaram Panda, một chuyên gia hàng đầu về Đông Á người Ấn Độ. 
Ông hiện là giáo sư thỉnh giảng ở Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản-Triều Tiên và Đông Bắc Á ở đại học Jawaharlal Nehru ở New Delhi (Ấn Độ).

Xin trích dịch: 
Biển Đông nổi lên là một trong những điểm nóng lớn, với nhiều nước tuyên bố chủ quyền một phần hoặc toàn bộ vùng biển này.
 Lý do sau cuộc tranh chấp này là kết quả của một bài báo vài năm trước, nêu vùng này có nguồn dầu khổng lồ cùng các tài nguyên khác.  
Trong nửa tá quốc gia đòi chủ quyền, Việt Nam, Trung Quốc và Philippines là 3 nước vướng vào một cuộc tranh chấp mãnh liệt. TQ tung ra “đường 9 đoạn” tham lam nhằm chiếm chủ quyền 80% biển Đông nên tạo ra tranh chấp biển với Việt Nam, Philippines, Đài Loan, Indonesia, Brunei và Malaysia.
Trong nửa tá quốc gia đòi chủ quyền vùng biển này, TQ đòi phần lãnh hải lớn nhất, một khu vực được diễn tả bằng “đường 9 đoạn” vốn kéo dài hàng trăm dặm từ miền đông và nam tỉnh Hải Nam. 
Vài năm qua, lãnh đạo Việt Nam, Philippines, TQ đều dùng các diễn đàn khu vực và quốc tế để tố cáo tuyên bố chủ quyền của nhau, đồng thời khẳng định vị thế của nước mình trên biển Đông.
Trong khi Việt Nam và Philippines muốn giải quyết tranh chấp theo chuẩn mực quốc tế, TQ lại muốn giải quyết song phương, nơi họ có thể bắt nạt bên yếu hơn bằng cách trương cơ bắp quân sự.
Philippines đã đưa vụ tranh chấp này lên Tòa án trọng tài quốc tế, Việt Nam tìm kiếm sự hiểu biết, hợp tác của nước bạn để giải quyết vấn đề này, và cũng sẵn sàng chiến đấu với quân TQ nếu TQ lao theo bất kỳ hình thức nào của chủ nghĩa phiêu lưu.
Quan điểm của Việt Nam
Ngày 23.6.2014, Đại sứ TQ tại Thái Lan Ning Fukui viết một bài báo trên nhật báo Matichon (Thái Lan) thể hiện quan điểm của TQ về vấn đề biển Đông.
Đáp lại, Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, ông Nguyễn Tất Thành viết một bài báo cũng do báo trên đăng ngày 7.7, để phản bác quan điểm sai trái của Đại sứ Fukui, bằng cách cung cấp nhiều sự thật và thông tin.   
Đáng chú ý, tựa bài viết của ông Thành là  “Ai mới thật sự là kẻ phá rối ở biển Đông ?”, tố cáo TQ tạo ra rắc rối không cần thiết trên vùng biển này khi khẳng định tuyên bố chủ quyền.  
Theo Đại sứ Thành, thông tin mà ông Fukui dùng trong bài viết để cãi rằng Việt Nam “quấy quả” TQ, trong thực tế là ông Fukui sao chép một bài báo đăng trên trang điện tử của Bộ Ngoại giao TQ vào ngày 8.6.2014.
Tuy nhiên, đại diện Bộ Ngoại giao TQ chưa bao giờ trình được chứng cứ thuyết phục và vô tư để bảo vệ quan điểm trong bài viết. Vì thế, nhận xét của Fukui bị “hớ” ngay từ đầu.   
Ngày 2.5.2014, TQ lén lút hạ đặt giàn khoan Haiyang Shiyou 981 vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam, dẫn đến sự phẫn nộ trong các cuộc thăm dò nhân dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế, gồm nhiều nghị sĩ Quốc hội Việt Nam.
Hành vi hạ đặt giàn khoan phi pháp của TQ còn được đi kèm bằng các hoạt động hung hăng và phi nhân của các tàu hộ tống giàn khoan. Các cơ quan truyền thông trong khu vực và quốc tế đều đưa thông tin rõ ràng về vụ này.
Khi làm thế, TQ đã tự vi phạm thỏa thuận song phương cấp cao dựa trên các nguyên tắc hướng dẫn giải quyết tranh chấp biển và luật quốc tế, gồm Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Công ước LHQ về luật biển (UNCLOS) năm 1982 và Tuyên bố ASEAN-TQ về Ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC).
Trong bài viết, Đại sứ Fukui nhận định chính phủ TQ đã không ngừng thể hiện chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa từ giữa thế kỷ 10. Tuy nhiên, quan điểm này không chỉ mâu thuẫn lịch sử, mà còn thiếu cơ sở pháp lý.
Mặt khác, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, với EEZ và thềm lục địa theo đúng luật quốc tế. 
Việt Nam là quốc gia đầu tiên kiểm soát và bảo vệ chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, ít nhất là từ thế kỷ 17, khi vùng lãnh thổ này là đất hoang. Nhà Nguyễn cũng lập đội binh Hoàng Sa để quản lý và phát triển Hoàng Sa.
Hàng năm, đội quân này ra Hoàng Sa để khai thác nguồn tài nguyên, tiến hành các cuộc thăm dò, trồng cây, dựng tượng đài, xây chùa chiền và cứu các tàu đắm v.v…
Việt Nam tuyên bố tất cả các hoạt động này đều được ghi trong các tài liệu chính thức.
Là một quốc gia, Đảng Cộng sản, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn muốn củng cố quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc Việt-Trung. Trong cuộc trả lời phỏng vấn của Việt Nam Thông tấn xã ngày 20.6. 2014, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định Việt Nam mong muốn duy trì hòa bình, ổn định để phát triển, do Việt Nam chịu quá nhiều tàn phá mất mát sau nhiều thập niên chiến tranh.
Cùng lúc, ông Trương Tấn Sang khẳng định Việt Nam sẽ không bao giờ chấp nhận các hành động của TQ dù mạnh mẽ thế nào để buộc Việt Nam phải nhượng lãnh thổ thiêng liêng và chủ quyền quốc gia.
Việt Nam đã thể hiện quan điểm mạnh mẽ, rằng chính phủ quyết tâm bảo vệ từng tấc đất tấc biển không bị xâm lược cho mọi công dân Việt Nam cùng quyền toàn vẹn lãnh thổ.  
Phiên họp khóa 9 của Ủy ban trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam hồi tháng 6.2014 đã dành nhiều thời gian đáng kể để tranh luận vấn đề giàn khoan của TQ. Phiên họp đạt sự nhất trí rằng hành vi của TQ là không thể chấp nhận được, và không thể có chuyện nước lớn thách thức công lý và đạo lý.
Phiên họp cũng lưu ý, rằng nhân dân Việt Nam  đã trải qua nhiều cuộc chiến, dũng cảm chống bọn xâm lược từ hàng ngàn năm qua và luôn sẵn sàng đối phó bất kỳ cuộc xâm  lược nào trong tương lai. Lần này, cộng đồng thế giới hoan nghênh quan điểm của Việt Nam.
Đại sứ Thành lưu ý sự mâu thuẫn với lịch sử trong bài viết của Đại sứ Fukui: năm 1898, khi chủ hai chiếc tàu Bellona và Himeji Maru yêu cầu chính quyền Trung Hoa bồi thường việc ngư phủ Trung Hoa hôi của khi hai tàu này bị đắm trong biển Hoàng Sa, thì quan kinh lược Quảng Đông tuyên bố Hoàng Sa là đất hoang, không thuộc về Trung Hoa, không liên quan với chính quyền huyện Hải Nam và không có cấp chính quyền nào phụ trách vùng đảo này.  
Cách nhắc khéo của bà Merkel 
Điều này có thể hiểu được, vì trong một giai đoạn dài lịch sử, các triều Nhà Minh và Nhà Thanh theo đuổi chủ trương “haijin”, thể hiện sự sợ hãi của họ về những đe dọa từ biển cả, hơn là ý định rời đất liền ra làm chủ biển cả.
Dựa trên quan điểm này của TQ về chủ quyền biển và Hoàng Sa, một bản đồ do nhà vẽ bản đồ nổi tiếng Jean-Baptiste Bourguignon d’Anville (người Pháp) vẽ và được in ở Đức hồi thế kỷ 18, chỉ cho thấy điểm xa nhất của lãnh thổ TQ dưới thời vua Càn Long (1736-1795) là đảo Hải Nam, chứ không có các đảo trên biển Đông như Hoàng Sa. 
Tấm bản đồ này đã được nữ Thủ tướng Đức Angela Merkel tặng Chủ tịch TQ Tập Cận Bình, khi ông thăm Đức hồi tháng 3.2014. 
Đại sứ Thành còn nêu các tài liệu TQ cũng công nhận chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam, như bộ HaiwaiJishi (1696) hoặc Hailu (1820) và trên các tạp chí quốc tế, như Journal of the Asiatic Society of Bengal (1837) hoặc Journal of the Geographical Society of London (1849).
Còn có các tài liệu không chính thức nêu TQ đoạt Hoàng Sa khỏi tay Nhật Bản năm 1946, như Đại sứ Fukui nêu trong bài báo của ông ta.
Nhưng mâu thuẫn ở chỗ: tại Hội nghị San Francisco 1951, lời đề nghị Nhật công nhận TQ có chủ quyền Hoàng Sa đã bị 46/51 quốc gia tham dự hội nghị bác.
Cũng tại hội nghị trên, trưởng đoàn Việt Nam là Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố Việt Nam có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và không có sự phản đối nào.
Sau này, Hội nghị Geneve 1954 để phục hồi hòa bình ở Đông Dương, tuyên bố các bên liên quan sẽ tôn trọng nền độc và quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Điều khoản này gồm cả quần đảo Hoàng Sa lúc đó do quân đội Pháp và Việt Nam Cộng hòa kiểm soát.
Việc TQ tuyên bố đã đánh bật quân Việt Nam Cộng hòa khỏi Hoàng Sa là đi ngược lại tinh thần Hội nghị Geneve 1954 vốn công nhận chủ quyền toàn vẹn  lãnh thổ của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và TQ chỉ là một bên liên quan.
Hơn nữa, đó là một hành vi xâm lược của TQ bằng cách sử dụng vũ lực, đã bị chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Mặt trận giải phóng miền Nam cực lực lên án. Và vì thế, không thể xem đó là chứng cứ cho TQ tuyên bố chủ quyền như họ đã nêu trong Bản ghi nhớ của Bộ Ngoại giao TQ ngày 12.5.1988.
Đại sứ Fukui tuyên bố hoạt động của giàn khoan Haiyang Shiyou 981 hồi tháng 5.2014 là sự kéo dài quá trình khoan dầu đã tiến hành trong 10 năm qua, trong vùng chủ quyền của TQ . Nhưng việc TQ nói Việt Nam không có quyền bình luận cũng như không có quyền phản đối,  chính là một tuyên bố sai trái và phi pháp.
Việt Nam luôn phản đối các hành vi sai trái của TQ như thăm dò, khai thác bằng nhiều phương cách và ở các mức độ khác nhau. Trong thực tế, TQ hạ đặt phi pháp Haiyang Shiyou 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam khoảng 60-80 hải lý.  Như thế là vi phạm chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, như đã nêu trong UNCLOS 1982 mà Việt Nam và TQ đều tham gia.
Đại sứ Fukui tuyên bố giàn khoan Haiyan Shiyou 981 nằm trong hải phận đảo “Tây Sa” (Hoàng Sa của Việt Nam), nhưng tuyên bố này phi hiệu lực, đi ngược lại UNCLOS 1982.
Hồi tháng 9.1975, ông Đặng Tiểu Bình ra một tuyên bố, trong đó ông nêu cả TQ và Việt Nam nên thương lượng để giải quyết vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa. Nhưng Bản ghi ngớ của Bộ Ngoại giao TQ ngày 12.5.1988 không nhắc lại sự kiện này.
Thay vào đó, TQ tỏ ra ngang ngược và hỗ trợ các hoạt động phi pháp của giàn khoan Haiyan Shiyou 981, bằng cách triển khai 140 tàu và máy bay, gồm các tàu chiến hiện đại có trang bị vũ khí, để cản trở lực lượng cảnh sát biển và tàu kiểm ngư của Việt Nam hoạt động trong lãnh hải Việt Nam.
Tàu TQ còn đâm va, xịt vòi nước vào tàu Việt Nam, gây thương tích cho hàng chục nhân viên kiểm ngư và ngư dân Việt Nam, gây tổn hại nhiều tàu chấp pháp Việt Nam. Tất cả các hành vi ngang ngược này diễn ra chỉ cách giàn khoan khoảng 10 hải lý.
Các hành vi phi nhân văn của TQ càng đáng lên án, sau khi họ đâm chìm một tàu đánh cá của ngư dân trong EEZ của Việt Nam rồi không cho các tàu Việt Nam vớt cứu 10 ngư dân của chiếc tàu bị đâm chìm. 
Dân tộc Việt Nam sẽ không ngồi yên 
Những trò bắt nạt này sẽ luôn bị bất kỳ nền văn minh nào lên án, và hành vi của TQ là không văn minh.
Hành vi này không chỉ vi phạm luật quốc tế gồm UNCLOS 1982, DOC cùng các thỏa thuận giữa lãnh đạo Việt-Trung, vụ việc không còn là một vấn đề song phương giữa Việt Nam và TQ nữa, mà nay là một sự đe dọa sự an ninh, tự do hàng hải và ổn định khu vực.
Vì thế, các nước khác trên thế giới đều ủng hộ quan điểm của Việt Nam, bày tỏ sự lo ngại và yêu cầu TQ lập tức chấm dứt các hành vi khiêu khích. TQ là nước lớn, phải có trách nhiệm lớn đối với sự ổn định của khu vực. Họ phải có các biện pháp kéo giảm căng thẳng do chính họ tạo ra.
Để làm thế, TQ phải rút ngay giàn khoan Haiyang Shiyou 981 và tàu hộ tống ra khỏi lãnh hải Việt Nam và hợp tác với Việt Nam để có giải pháp xử lý các vấn đề tranh chấp. Để làm thế, mỗi nước phải trình chứng cứ lịch sử và lý lẽ pháp lý lên một cấp tòa quốc tế để có một quyết định.
Nếu TQ chấp nhận các biện pháp hòa bình để giải quyết xích mích và tuân thủ phán quyết của một cấp tòa để thỏa mãn các nước nhỏ như Việt Nam, Philippines và Thái Lan, thì lúc đó chỉ có TQ có thể chứng minh là một nước lớn có tinh thần trách nhiệm.
TQ phải từ bỏ tinh thần nước lớn đi dọa nạt các nước nhỏ hơn bằng cách biểu dương cơ bắp quân sự.
TQ phải đừng đánh giá thấp khả năng trã đũa của Việt Nam, khi hành vi của họ làm nhiều người Việt Nam có truyền thống yêu  nước nhiệt thành phải bức xúc, phẫn nộ. Họ sẽ không để yên khi chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ bị đe dọa, người Việt Nam sẽ đoàn kết một lòng bảo vệ Tổ quốc của họ.
TQ cần phải học vài bài học và có biện pháp sửa sai, để tránh tình hình xấu bùng nổ thành một cuộc khủng hoảng khu vực khác.
Nếu TQ chân thành không muốn hòa bình khu vực châu Á bị rối loạn, họ phải rút ngay giàn khoan khỏi lãnh hải Việt Nam. 90 triệu dân Việt Nam không ngồi yên chứng kiến bất công từ việc một nước châu Á khác dùng cơ bắp quân sự mới có để xâm lược nước họ, để đe dọa các nước nhỏ và vi phạm luật quốc tế mà không bị trừng phạt….
Tôi muốn kết thúc bài phân tích này với việc thuật lại lời Chủ tịch Trương Tấn Sang nói với Việt Nam thông tấn xã ngày 20.6.2014. Ông Sang trích dẫn lời Vua Lê Thánh Tông nói với các quan triều đình, được ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước núi, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di!”.
Đó là quan điểm chính thức của Việt Nam. TQ có lắng nghe?"



 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Chủ Nhật, 20 tháng 7, 2014

Nhìn lại 75 ngày giàn khoan Hải Dương 981 hạ đặt trái phép trong vùng đặ...



Nhìn lại 75 ngày giàn khoan Hải Dương 981 hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa của VN. Ngay sau khi Cục Hải sự TQ ra thông báo hàng hải ngày 3/5 thông báo về hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 từ ngày 2/5 đến 15/8, VN đã lên tiếng phản đối việc TQ có hành động xâm phạm chủ quyền của VN trên Biển Đông. VN đã cảnh cáo TQ rằng vị trí tọa độ hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của VN, cách bờ biển VN khoảng 130 hải lý. Theo đó, VN yêu cầu TQ dừng ngay lập tứccác hoạt động bất hợp pháp và rút giàn khoan hoạt động trái phép ra khỏi vùng biển của VN. VN cũng cảnh báo mọi sự chịu đựng đều có giới hạn trước hành động leo thang của TQ với việc tổ chức các loại tàu, trong đó có tàu quân sự để uy hiếp, tấn công tàu VN. Theo Vietnamnet.







(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Loading...