TIN NÓNG HOÀNG SA-TRƯỜNG SA, BIỂN ĐÔNG (VIỆT NAM)

Thứ Năm, 10 tháng 7, 2014

(TNBĐ)- Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa: Việt Nam Cộng hòa thực thi ra sao? (kỳ 1)

(TNBĐ) -  Ngày 23/5/2014, tại cuộc họp báo quốc tế của Bộ Ngoại giao về chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, trả lời báo chí về việc quản lý Hoàng Sa, Trường Sa những năm 1960-1970 của thế kỷ trước, Bộ Ngoại giao khẳng định “Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa”.
Biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974


Kỳ I: Khẳng định chủ quyền


Lý giải vấn đề này, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới, Bộ Ngoại giao Việt Nam nói: “Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa, Trường Sa vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa. Giá trị công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gửi Trung Quốc lúc đó Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc quản lý của Việt Nam cộng hòa, Trung Quốc chỉ là một bên tham gia. Không thể cho người khác cái gì mà bạn chưa có được”.
Chính quyền Việt Nam đã thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa trước năm 1975 như thế nào? Phóng viên Tiền Phong có bài viết cung cấp thêm thông tin cho bạn đọc.

Kế thừa

Trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20 đầy biến động, Việt Nam cũng như nhiều nước khác bị thực dân đế quốc đô hộ, nhưng nhà nước phong kiến Việt Nam đã khéo léo trong việc thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là việc kế thừa văn hóa biển lâu đời của người Việt, mà bằng chứng thể hiện trên Trống Đồng Ngọc Lũ hay các di chỉ ven biển Đông cũng như các di tích khảo cổ ven bờ và các hòn đảo. 
Triều đình nhà Nguyễn tiếp nhận sự quản lý đối với Hoàng Sa từ triều Lê với nhiều văn bản cấp quốc gia quản lý Hoàng Sa. Năm 1802 dưới thời vua Gia Long đã thiết lập Đội Hoàng Sa đã kiểm soát và khai khẩn quần đảo. 
Tàu Nhật Tảo tham gia bảo vệ Hoàng Sa và bị chìm

Mặc dù đất nước chịu họa xâm lăng của người Pháp, nhưng triều đình nhà Nguyễn vẫn là nhà nước nắm giữ chính quyền, đặc biệt là sự kiểm soát chặt chẽ địa lý hành chính khu vực miền Trung nơi có kinh đô Huế. Nghị định ra ngày 15/6/1932 toàn quyền Đông Dương đã đặt Hoàng Sa thành đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Thừa Thiên, tức là dưới sự quản lý trực tiếp của Triều đình Huế. Binh lính được đưa ra đảo đồn trú. Năm 1938 có chỉ dụ của Đại Nam Hoàng Đế Bảo Đại số 10, ngày 30/3/1938 về Hoàng Sa. 
Việc quản lý vẫn tiếp tục ngay cả khi phát xít Nhật chiếm đóng trái phép (Năm 1939 chính phủ Pháp đã phản đối việc chiếm đóng của phát xít Nhật). Phát xít thua trận, Hội nghị San Francisco được tổ chức với 51 nước tham dự. Điều 2 của hòa ước San Francisco năm 1951 có hiệu lực tái lập sự toàn vẹn lãnh thổ cho những quốc gia từng bị phát xít Nhật chiếm đóng. Đoàn đại biểu Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền tại Hoàng Sa và nhận được sự đồng ý của 48/51 đại biểu của các nước tham dự và tiếp tục sự quản lý hoàn toàn hợp pháp của mình với Hoàng Sa và Trường Sa. 

Sau năm 1954, tăng cường luật pháp

Hiệp định Geneve lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến tạm thời, ghi: “Trong khi đợi tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, bên nào có quân đội của mình tập hợp ở vùng nào theo quy định của Hiệp định này thì bên ấy sẽ phụ trách quản lý hành chính ở vùng ấy”. Bản Tuyên bố chung, được phổ biến rộng rãi tại miền Nam khi đó cũng ghi rõ: “Đường ranh giới quân sự tạm thời này không thể diễn giải bằng bất cứ cách nào rằng đó là một biên giới phân định về chính trị hay lãnh thổ”. Việc tổng tuyển cử thống nhất hai miền vì nhiều lý do bị trì hoãn, nhưng việc thực thi chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa luôn được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) chú ý.

Vấn đề hải phận đã được cụ thể hóa bằng Sắc lệnh số 81-NG của Thủ tướng chính phủ VNCH ngày 27/5/1965 ấn định hai khu vực: Một khu vực gọi là Khu vực phòng vệ trong giới hạn 03 Hải lý kể từ bờ. Một khu vực gọi là Khu vực kế cận kể từ ranh giới ngoài hải phận đến giới hạn 12 hải lý kể từ bờ. Trong khu vực kế cận, văn kiện ấn định cho quốc gia những thẩm quyền tương đương với quyền mà thỏa ước Geneve quy định cho một quốc gia ven biển, đối với vùng kế cận hải phận của mình. 
Năm 1969, VNCH đã thành lập một Ủy ban Liên bộ soạn thảo dự luật quy định hải phận quốc gia. 
Vấn đề thềm lục địa cũng nóng lên cùng với những hoạt động con thoi: Một bản tuyên cáo của Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia ngày 7/9/1967 xác định phần lòng đất và đáy biển thềm lục địa là một phần lãnh thổ quốc gia, và thuộc thẩm quyền của Chính phủ VNCH.
Năm 1968, VNCH thành lập một Ủy ban nghiên cứu thềm lục địa, sau đó giao công việc lại cho Ủy ban Quốc gia dầu hỏa 2/6/1971.
Ngày 13/7/1961 dưới thời Đệ nhất cộng hòa, Tổng thống VNCH đã ban hành sắc lệnh 174NV đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam thay vì tỉnh Thừa Thiên và thành lập lại quần đảo này thành xã Định Hải, quận Hòa Vang.
Dưới thời Đệ nhị cộng hòa, Nghị định số 709-BNV/HC ngày 21/10/1969 của Thủ tướng chính phủ VNCH đã sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long cũng thuộc quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam.

Tìm tiếng nói quốc tế

Hội nghị Liên Hợp Quốc (LHQ) lần 1 về Luật Biển được tổ chức vào năm 1958 tại Geneve với 86 quốc gia tham dự, trong đó có VNCH. Hội nghị này đã chấp thuận bốn công ước về luật biển.
-Công ước về lãnh hải và vùng tiếp cận 
-Công ước về biển cả 
-Công ước về đánh cá và bảo toàn tài nguyên sinh vật ở biển cả 
-Công ước về thềm lục địa
Tất cả các công ước này có hiệu lực vào các năm khác nhau sau đó, với số quốc gia kết ước trung bình vào khoảng 40 mỗi công ước. Kỹ sư Trần Văn Khởi, Tổng cục trưởng Dầu hỏa và Khoáng sản của VNCH đánh giá rằng: “Hai khuyết điểm vô cùng quan trọng của các công ước này là không định được giới hạn của lãnh hải, và không định nghĩa rõ ràng về thềm lục địa”.
Cuối năm 1974, sau khi Trung Quốc đánh chiếm trái phép Hoàng Sa, Đoàn VNCH cũng tham dự Hội nghị Luật biển lần thứ 3 của LHQ tại Caracas ngày 2/7/1974. Hội nghị này có gần 150 quốc gia được mời tham dự. 
Hội nghị Luật biển tại Caracas bàn nhiều về quyền khảo cứu và khai thác tài nguyên biển. Một số nước đưa quan điểm mọi quốc gia đều có quyền khảo cứu và khai thác trong khu vực biển quốc tế miễn là tuân hành theo những quy định và điều kiện do cơ quan quốc tế ấn định. Song, người ta tính rằng vào thời điểm đó “chỉ có chưa được 10 quốc gia trên thế giới có khả năng và phương tiện khai thác”.
Đoàn Việt Nam, trưởng phái đoàn VNCH là ngoại trưởng Vương Văn Bắc, ngày 30/7/1974 đã chính thức trình bày lập trường: “Chính phủ VNCH đặc biệt chú trọng đến vấn đề khai thác tài nguyên thiên nhiên ở phần phía Nam của thềm lục địa liên hệ. Lập trường của VNCH về ranh giới thềm lục địa là phải áp dụng tiêu chuẩn khoảng cách 200 hải lý kể từ đường căn bản nhưng khi thềm lục địa rộng hơn khoảng cách trên bề rộng của thềm lục địa sẽ được ấn định ra đến cạnh ngoài cùng thấp nhất của bờ lục địa”. 
Chính phủ VNCH cũng bày tỏ rằng hoàn toàn ủng hộ lập trường đã được đề nghị, theo đó việc phân tranh thềm lục địa phải được giải quyết bằng những cuộc thương thuyết trực tiếp và song phương theo nguyên tắc công bằng hay mọi tranh chấp nếu có, sẽ được giải quyết bằng mọi phương cách hòa bình bởi những cơ quan tài phán quốc tế.
Cũng trong hội nghị này, ngày 28/8/1974 tổng trưởng Ngoại giao Vương Văn Bắc, Trưởng phái đoàn VNCH đã lên diễn đàn long trọng tuyên bố rằng: “Chính phủ VNCH không chấp nhận mọi xâm phạm đến sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bất kể trên đất liền hay khoảng biển thuộc quyền tài phán quốc gia. Cũng như đã có thông báo với Tổng thư ký LHQ và Hội đồng An ninh, Phái đoàn VNCH xác nhận một lần nữa rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là những thành phần bất khả phân của lãnh thổ VNCH”.
(Còn nữa)



 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Tư, 9 tháng 7, 2014

(TNBĐ)- Bút chiến về Hoàng Sa trên báo Thái Lan

(TNBĐ) - Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan đăng bài trên tờ báo hàng đầu của Thái, bác bỏ lập trường sai trái về mặt lịch sử và pháp lý của đại sứ Trung Quốc về vấn đề Biển Đông.

Ông Nguyễn Tất Thành, Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan hôm 7/7 đăng bài viết "Ai là kẻ gây bất ổn ở Biển Đông? - Vài lời với Đại sứ Ninh Phú Khôi" lên báo Matichon, phản bác một bài trước đó của ông Ninh cũng trên báo này hôm 23/6.
Ông Thành lần lượt bác bỏ từng luận điểm sai trái về mặt lịch sử và pháp lý trong bài báo của Đại sứ Trung Quốc Ninh Phú Khôi, đồng thời chỉ trích những hành động vô nhân đạo của nước này xung quanh giàn khoan Hải Dương 981. 
Về mặt lịch sử, ông Thành bác bỏ quan điểm của Đại sứ Trung Quốc cho rằng chính phủ Trung Quốc đã thực hiện chủ quyền liên tục, hợp pháp và ổn định đối với quần đảo Hoàng Sa từ giữa và cuối thế kỷ thứ 10. "Điều này mâu thuẫn với lịch sử và nhầm lẫn về pháp lý", đại sứ Việt Nam viết, viện dẫn những tài liệu quốc tế và của chính Trung Quốc để phản bác. 
Theo Đại sứ Thành, ông Jean-Baptiste Bourguignon d'Anville, nhà bản đồ học hàng đầu người Pháp, thể hiện lãnh thổ Trung Quốc thời Càn Long (1736 - 1795) chỉ giới hạn đến đảo Hải Nam trong tấm bản đồ xuất bản tại Đức thế kỷ 18. Tấm bản đồ được Thủ tướng Đức Angela Merkel tặng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tháng ba khi ông Tập tới thăm Đức. 
Về mặt pháp lý, đại sứ Thành khẳng định "không có bất cứ tài liệu quốc tế chính thức liên quan nào ghi rằng Trung Quốc giành lại Hoàng Sa từ Nhật Bản năm 1946 như Đại sứ Ninh đã viết". 
Phản bác luận điểm cho rằng hoạt động của giàn khoan Hải Dương-981 là sự tiếp nối của tiến trình thăm dò trong suốt 10 năm qua, nằm trong phạm vi chủ quyền và quyền quản lý của Trung Quốc, ông Thành cho biết hoạt động thăm dò, khảo sát trái phép của Trung Quốc tại vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông trong một thập kỷ qua luôn gặp phải sự phản đối của Việt Nam, dưới nhiều hình thức và ở các cấp khác nhau.
"Việc Việt Nam kiên quyết phản đối hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 lần này là để bảo vệ khu vườn cùng các cây cối tại đó của mình đang bị một người hàng xóm vô cớ đòi sở hữu", đại sứ viết. 
Đại sứ Việt Nam cũng chỉ trích Trung Quốc huy động một lực lượng hùng hậu tàu bè và máy bay các loại, trong đó có cả tàu quân sự hiện đại, trang bị vũ khí đầy đủ để phun vòi rồng, đâm va, cản phá hoạt động của tàu cảnh sát biển và kiểm ngư Việt Nam.
"Vô nhân đạo hơn cả là việc tàu Trung Quốc đâm chìm một tàu cá của Việt Nam đang đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và các tàu của Trung Quốc ngăn cản hoạt động tàu Việt Nam cứu trợ đối với 10 thuyền viên của tàu bị chìm", ông Thành cho biết.

Các hành động của Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, trái với tinh thần và lời văn của Tuyên bố về cách ứng xử ở Biển Đông cũng như các thỏa thuận cấp cao giữa hai nước. Hành vi của Trung Quốc không còn là một vấn đề song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc mà đã và đang đe dọa an ninh, an toàn, tự do hàng hải và gây bất ổn trong khu vực.
Với bài viết trên báo Thái Lan, đại sứ Việt Nam chỉ ra khoảng cách lớn giữa lời nói và việc làm của Trung Quốc. Ông yêu cầu Trung Quốc ngay lập tức rút giàn khoan Hải Dương 981 cùng các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển của Việt Nam và cùng Việt Nam giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan.
Ông Thành cũng cho rằng cả hai đại sứ nên tận dụng hiểu biết về tranh chấp hiện nay xung quanh hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 để đưa ra những đề xuất phù hợp với cơ quan chức năng trong nước, "kể cả việc kiến nghị chính phủ hai nước trình bày những bằng chứng lịch sử và lập luận pháp lý của hai bên trước một cơ quan tài phán quốc tế để phân xử".
"Việc Trung Quốc đồng ý sử dụng biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp này và quan trọng hơn, đó là tuân thủ phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế chính là điều thiết thực để giúp các nước như Việt Nam và Thái Lan có lòng tin rằng Trung Quốc thực sự thực hiện 'trách nhiệm của 'một nước lớn'", đại sứ Việt Nam viết. 
Trước đó, các cuộc tranh luận bằng phỏng vấn hoặc bài viết cũng được các đại sứ Việt Nam tại Mỹ và Indonesia thực hiện, phản bác các quan điểm sai trái của phía Trung Quốc về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và việc đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam.


 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

(Trung Quốc)- Mao Trạch Đông, ngàn năm công và tội (Chương 21)

(TNBĐ) - Các cô gái trẻ kính sợ khả năng tình dục khác thường của Mao tương tự như kính trọng uy thế chính trị cua ông ta. Mao hạnh phúc nhất và thỏa mãn nhất là khi cùng chung chăn chung gối với nhiều cô gái một lúc. Mao khuyến khích các cô giới thiệu ông ta những kiểu làm tình mới lạ.

 Chương 21: Mao Lưu đoạn tuyệt

Đại hội 7.000 người không giải quyết được vấn đề “tả” khuynh từ gốc rễ, chính sách điều chỉnh không được quán triệt, nhiều người mang tâm lý cầu may, chỉ cần năm nay nông nghiệp được mùa, là sang năm mọi việc đều tốt đẹp.
Dựa vào kinh nghiệm chính trị, cán bộ cấp cao cảm thấy Mao Trạch Đông sẽ tiếp tục chống hữu, nên án binh bất động.

Đầu tháng 5-1962, Lưu Thiếu Kỳ triệu tập Hội nghị công tác trung ương thảo luận báo cáo kế hoạch điều chỉnh năm 1962 do Chu Ân Lai, Trần Vân, Lý Tiên Niệm chủ trì khởi thảo, chủ yếu là giảm số người làm công ăn lương và số dân thành thị, khôi phục danh dự cho những người bị qui là phái hữu, và phát triển nông nghiệp. Mao Trạch Đông an dưỡng ở Vũ Xương. Lâm Bưu nghỉ ngơi ở Tô Châu Trần Vân ốm không dự họp.
Vào lúc này, trên dưới đều thấy khoán sản tới hộ có thể cứu đói thoát nghèo, nhưng việc này trái với Tư tưởng Mao Trạch Đông, nên không dám làm. Nhưng một số nơi vẫn làm chui, như 30% tổng số đội sản xuất ở An Huy, có vùng đến 70%. Ở Hà Nam, đất phần trăm và đất cho nông dân mượn chiếm 16% đất canh tác, có nơi tới 28%. Nông dân gọi đó là “chính sách cứu mạng”. Đa số uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị đều ủng hộ ý kiến của nông dân mong muốn khoán sản tới hộ, nhưng Mao bác bỏ. Nếu việc Mao bắt đầu thực hiện Công xã hoá là xuất phát từ hảo tâm, hậu quả mấy chục triệu người chết đói là điều ông ta không ngờ tới, thì việc vẫn không chịu thay đổi chính sách lúc này lại do ác ý.
Ngày 6-8-1962, Mao triệu tập Hội nghị công tác trung ương tại Bắc Đới Hà. Đây là cuộc phản công của Mao kể từ khi kiểm điểm sai lầm và thực hiện chính sách điều chỉnh. Ngay buổi họp đầu, Mao đã nói về đấu tranh giai cấp, phê phán “làm ăn riêng lẻ”. Thế là những người chủ trương khoán sản đến hộ từ Trần Vân, Đặng Tử Khôi trở xuống đều kiểm thảo.
Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 10 khoá 8 họp tại Bắc Kinh. Trong cuộc họp trù bị kéo dài 29 ngày, Mao phê phán “làn sóng làm ăn riêng lẻ” của Đặng Tử Khôi, làn sóng “lật án” của Bành Đức Hoài, cuối cùng lại phê phán tiểu thuyết “Lưu Chí Đan” lật án cho Cao Cương, nêu lên “tập đoàn chống đảng” Tập Trọng Huân, Giả Thác Phu, Lưu Cảnh Phạm để chặt phăng “nhóm Tây Bắc” của Bành Đức Hoài. Ngày 24-9, hội nghị chính thức bắt đầu. Mao không bảo vệ “đường lối chung” nữa, mà đưa ra “đường lối cơ bản”: “Xã hội XHCN là một giai đoạn lịch sử khá dài. Trong giai đoạn này còn có giai cấp mâu thuẫn gia; cấp và đấu tranh giai cấp, tồn tại cuộc đấu tranh giữa hai con đường xá hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, có nguy cơ phục hồi chủ nghĩa tư bản… Từ nay, chúng ta phải nhắc đến hàng năm, hàng tháng, hàng ngày, để có nhận thức tương đối tỉnh táo về vấn đề này, có một đường lối Mác xít-Leninnít”. Mao lặng lẽ dùng “đường lối cơ bản” ấy thay thế “đường lối chung”. Nắm kinh tế thất bại, Mao muốn thắng lại về chính trị. Mao không biện hộ cho “ba ngọn cờ hống” nữa, không biện hộ cho quan hệ giữa “một ngón tay và chín ngón tay” nữa, vì như thế rất bị động. Mao rút khỏi lĩnh vực kinh tế mà ông không am hiểu, chuyển sang lĩnh vực chính trị quen thuộc, rút lui về kinh tế để chuyển sang tấn công về chính trị. Địch thủ Mao tấn công chẳng phải ai xa lạ, chính là Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Trần Vân… những người đã lãnh đạo đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn, giữ cho chính quyền không sụp đổ, khiến Mao Trạch Đông vẫn ngồi được trên ngôi báu chí tôn.
Công cuộc điều chỉnh kinh tế quốc dân bắt đầu từ nửa cuối năm 1960 đã thu được thành quả nổi bật, kinh tế quốc dân năm 1963 có xu thế hồi phục toàn diện. Kinh tế vừa chuyển biến tốt, Mao lại bắt đầu vật vã, chuyển sang tấn công về chính trị, đột phá khẩu vẫn là nông thôn. Tại Hội nghị công tác trung ương tháng 2-1963, Mao quyết định triển khai phong trào “tứ thanh” (trong sạch về chính trị, kinh tế, tổ chức, và tư tưởng) trong nông thôn cả nước.
Ngày 15-11-1960, Mao từng viết: “Cả nước 2/3 khu vực tình hình rất tốt đẹp, 1/3 rất không tốt đẹp. Phải có thời gian chú ý đến 1/3 này, nơi đó kẻ xấu cầm quyền, giết người, nhân dân đói rách, cuộc cách mạng dân chủ chưa thành công, các thế lực phong kiến tác oai tác quái, càng thêm thù địch chủ nghĩa xã hội phá hoại quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa”.
Ngày 8-6-1964, Mao nói rõ hơn: “1/3 quyền lực ở nước ta không nằm trong tay nhân dân, mà trong tay kẻ thù”. Mao đổ trách nhiệm về tình hình nghiêm trọng do “ba ngọn cờ hồng” gây ra lên đầu đông đảo cán bộ nông thôn và những phần tử địa chủ, phú nông đang bị quản chế.
Căn cứ vào đánh giá trên, tỉnh Hồ Nam xác định có 30 huyện nằm trong tay Quốc Dân Đảng, chiếm trên 1/3 số huyện trong toàn tỉnh. Trong phong trào Đại tiến vọt và Công xã hoá, 30 huyện trên đều là những huyện chấp hành chỉ thị của Mao kiên quyết nhất, liều lĩnh khoác lác nhất, tỉ lệ ăn tập thể cao nhất, nộp lương thực nhiều nhất, do đó số người chết đói cũng nhiều nhất, tình hình các tỉnh khác cũng tương tự.
Để chứng tỏ mình luôn luôn đúng đắn, Mao Trạch Đông cần hy sinh hàng loạt phần tử tích cực đã theo Mao; qui họ là kẻ thù giai cấp, coi tội ác tày trời làm chết đói 37,55 triệu người do đường lối cực tả của ông ta gây ra là “tiếp tục cuộc đấu tranh sống còn giữa hai giai cấp lớn đối kháng trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa 10 năm qua”, coi phong trào “Tứ thanh” là cuộc đấu tranh lâu dài của bần nông và trung nông lớp dưới tiếp tục chống kẻ thù giai cấp, Mao biến mình từ tội phạm đầu sỏ của tai hoạ trên thành đại cứu tinh đưa nhân dân thoát khỏi nước sôi lửa bỏng.
Lưu Thiếu Kỳ lãnh đạo phong trào “Tứ thanh”, muốn theo luồng tư duy của Mao Trạch Đông, đổ trách nhiệm về tai hoạ lớn này lên đầu kẻ thù giai cấp. Mao kêu gọi cán bộ các cấp xuống cơ sở tham gia “Tứ thanh”, nhưng không chuyển. Để thực hiện chỉ thị của Mao, Lưu Thiếu Kỳ gọi Trưởng ban Tổ chức Trung ương An Tử Văn đến sắp xếp cụ thể, đồng thời tuyên bố: những ai không tham gia “Tứ thanh”, thì không được làm uỷ viên Trung ương, Bí thư Tỉnh uỷ, Thành uỷ, Khu uỷ nữa, thế là 180 cán bộ cấp bộ và cấp tỉnh, trên 1.000 cán bộ cấp khu sôi nổi tham gia. Điều đó khiến Mao giật mình: quyền lớn rơi vào tay kẻ khác rồi!
Tuy chính sách “ba tự một bao” khiến trăm họ có cơm ăn, đất nước thoát khỏi khủng hoảng. khiến ngai vàng của Mao không sụp đổ nhưng Mao không công nhận, vì như vậy là thừa nhận mình sai lầm, Mao cần trước tiên lợi dụng “phái đi con đường tư bản” này để ổn định nông thôn, làm ra lương thực, giữ vững giang sơn, sau đó sẽ đánh đổ họ. Mao cho rằng người uốn nắn sai lầm của Mao tất sẽ là phái phản đối trong tương lai. Mao không thể quên tình cảnh đáng sợ tại Đại hội 7.000 người khi toàn đảng nghi ngờ đường lối và truy cứu trách nhiệm của ông ta. Mao nói “ba tự một bao” là tội ác rất lớn, coi những cán bộ thực hiện chinh sách này là “phái đương quyền trong đảng đi con đường tư bản chủ nghĩa”.
Sự việc Lưu Thiếu Kỳ lo ngại nhất đã xảy ra. Trong cuộc họp ngày 28-12, Mao nói trong đảng hiện ít nhất có hai phái, phái xã hội chủ nghĩa và phái tư bản chủ nghĩa. Rồi nói vỗ mặt Lưu: “Ông thì có gì ghê gớm, tôi chỉ cần động ngón tay út là có thể đánh đổ ông ngay”. Đó là khởi điểm đoạn tuyệt giữa hai người.
Mao cho rằng tuyệt đại đa số cán bộ trong hệ thống đảng và chính quyền theo Lưu Thiếu Kỳ rồi, giờ phải gửi gắm hy vọng vào quân đội. Tháng 10-1963, Mao viết thư cho Lâm Bưu, yêu cầu cử La Thụy Khanh, Dương Thành Vũ… dẫn đầu cán bộ quân đội tham gia phong trào “Tứ thanh” kèm theo bài thơ của Tào Tháo “Quy tuy thọ”, ngầm cho biết Mao sẽ thay đổi người kế tục, nhắc Lâm giữ gìn sức khỏe, chuẩn bị gánh vác trọng trách.
Ngày 26-12-1964, Lâm Bưu, Trần Bá Đạt, Khang Sinh trở thành thượng khách nhân kỷ niệm ngày sinh thứ 71 của Mao.
Nhật ký Lâm Bưu viết: “Mao uống một bình Bạch sa dạ, thứ rượu ngon nhất Hồ Nam, hỏi đi hỏi lại: “Trung ương có người muốn cướp quyền, muốn thực hiện chủ nghĩa xét lại, làm thế nào đây? Chắc quân đội không theo họ chứ. Bộ Chính trị. Ban Bí thư Trung ương, Chính phủ đều muốn loại bỏ họ Mao này. Ta vẫn là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Quân uỷ, ép ta tạo phản, ta sẽ làm cho trời nghiêng, đất lệch”
Cuối năm 1964 do các nguyên soái Hạ Long, Diệp Kiếm Anh và đại tướng La Thụy Khanh đề xướng và tổ chức, quân đội Trung Quốc dấy lên cao trào đua tài kỹ thuật quân sự trong các quân binh chủng, Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo khác rất hoan nghênh, và từng trực tiếp đến xem các cuộc thi đấu này. Nhưng ngày 29-12 năm ấy, Lâm Bưu đột nhiên ra chỉ thị phủ định hoạt động trên, phê bình huấn luyện quân sự làm quá nổi bật, chiếm quá nhiều thời gian, ảnh hưởng đến công tác chính trị trong quân đội. Lâm Bưu yêu cầu năm 1965 phải ra sức tăng cường công tác chính trị tư tưởng, dấy lên cao trào học tập tác phẩm của Mao.
Vậy là Lâm Bưu chỉ một phiếu đã phủ định Quân uỷ Trung ương, phủ định cả Mao Trạch Đông. Chỗ tế nhị nhất là Mao đã ngầm tán thành sự phủ định này. Không được Mao bật đèn xanh, Lâm Bưu đâu dám làm như vậy. Sở dĩ Mao cho phép Lâm Bưu đụng đến quyền uy của mình, một là bởi Lâm Bưu chủ trương thay thế hoạt động huấn luyện và đua tài quân sự bằng dấy lên cao trào học tập tác phẩm Mao rộng lớn hơn trong toàn quân, phần quyền uy Mao mất mát sẽ được bù lại hàng chục, hàng trăm lần. Hai là Mao đang đánh bài ngửa với Lưu Thiếu Kỳ, người đang chiếm được đa số trong Bộ Chính trị và Ban chấp hành trung ương, Mao cố ý tăng cường quyền uy của Lâm Bưu tới mức có thể áp đảo đa số ấy. Quả nhiên Mao không thất vọng, một phong trào quần chúng học tập và vận dụng tác phẩm của Mao mang màu sắc cuồng nhiệt tôn giáo đã được dấy lên trong 3 triệu quân đội rồi phổ cập trong cả nước. Đây là sự chuẩn bị về dư luận, tư tưởng và chính trị quan trọng nhất cho đại cách mạng vãn hoá. Từ 1965 đến khi kết thúc Đại cách mạng văn hoá, Trung Quốc đã phát hành tổng cộng 5 tỷ cuốn “Trích lời Mao Chủ tịch”.
Việc Mao tuyên bố “đánh đổ” Lưu Thiếu Kỳ (tại Hội nghị công tác Trung ương 28-12-1964) khiến toàn Đảng chấn động. Để hàn gắn vết rạn lớn này, chiều 13-l-1965, Lưu chủ động tự kiểm điểm trước cuộc họp nội bộ có 17 uỷ viên Bộ Chính trị tham gia, mọi người phê bình, giúp đỡ, Trần Bá Đạt ghi chép về báo cáo Mao. Trong hơn một năm sau đó, bề ngoài Lưu Thiếu Kỳ vẫn chủ trì công tác tuyến một, tiến hành các hoạt động nhà nước bình thường trên cương vị Chủ tịch nước, nhưng Mao không làm việc với Lưu và Ban Bí thư nữa, mà ngầm chỉ huy Lâm Bưu, Giang Thanh cùng một số ít người khác chuẩn bị cuộc đấu tranh mới, thực tế là thành lập một Trung ương mới, một Bộ tư lệnh riêng.
 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Loading...