TIN NÓNG HOÀNG SA-TRƯỜNG SA, BIỂN ĐÔNG (VIỆT NAM)

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2016

Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – Nguyên nhân và giải pháp (Phần 5)


PHẦN 5
E- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG QUỐC, VIỆT NAM CÙNG CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI TRƯỜNG SA TỪ NĂM 1975 ĐẾN NAY
Từ 1975 đến 1990, Việt Nam hợp tác toàn diện với Liên xô, Trung Quốc đã ký với Mỹ Thông cáo chung ở Thượng Hải năm 1972; mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô không giảm; Việt Nam và Trung Quốc xảy ra chiến tranh năm 1979 khiến tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa càng trở nên gay gắt.
Sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, thời cơ chiến lược giải phóng Miền Nam đã đến. Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong mùa khô 1975, bao gồm cả các đảo và các quần đảo Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc…
Ngày 5-4-1975, Bộ Tư lệnh Hải quân chủ trương chuẩn bị chiến đấu giải phóng quần đảo Trường Sa. Lực lượng tham gia giải phóng gồm có các tàu của đoàn vận tải quân sự 125, đoàn 126 đặc công, tiểu đoàn 471, đặc công quân khu 5 và tiểu đoàn 407 cùng lực lượng đặc công tỉnh Khánh Hòa. Bộ Tư lệnh Hải quân chủ trương nhanh chóng đánh đảo Song Tử Tây trước để làm bàn đạp và rút kinh nghiệm đánh tiếp các đảo Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang, Trường Sa và các đảo còn lại của quần đảo.
Ngày 9-9-1975, đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tại hội nghị khí tượng thế giới tiếp tục đăng ký Đài khí tượng Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 10-9-1975, Bắc Kinh gửi công hàm cho VNDCCH khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa).
Ngày 24-9-1975, trong cuộc gặp đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ VNDCCH do Tổng Bí thư Lê Duẩn dẫn đầu, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình tuyên bố sau này hai bên sẽ bàn bạc về vấn đề Tây Sa và Nam Sa.
Ngày 12-5-1977, Chính phủ Việt Nam tuyên bố về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam.
Tháng 9/1977, khi thăm Philippines và tháng 10/1977 khi đi thăm Malaysia, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đồng ý với Tổng thống Ferdinand Marcos và Thủ tướng Hussein On rằng hai bên sẽ giải quyết mọi tranh chấp và bất đồng bằng thương lượng hòa bình.
Tháng 3/1978, Hội nghị hành chính thế giới về thông tin vô tuyến điện thông qua một nghị quyết cho phép Trung Quốc sử dụng một số tần số trên vùng trời Hoàng Sa.
Ngày 30-12-1978, người phát ngôn Bộ ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) ra tuyên bố bác bỏ luận điệu nêu trong tuyên bố ngày 29-2-1978 của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc về vấn đề quần đảo Trường Sa, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhắc lại lập trường của Việt Nam chủ trương giải quyết mọi tranh chấp hoặc bất bình bằng thương lượng hòa bình.
Ngày 30-7-1979, Trung Quốc đã công bố tại Bắc Kinh tài liệu để chứng minh rằng Việt Nam đã “thừa nhận” chủ quyền Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 7-8-1979, Bộ Ngoại giao nước CHXHCNVN ra tuyên bố về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bác bỏ sự xuyên tạc của Trung Quốc trong việc công bố một số tài liệu của Việt Nam liên quan đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này, nhắc lại lập trường của Việt Nam về việc giải quyết sự tranh chấp về hai quần đảo giữa hai nước bằng thương lượng hòa bình.
Ngày 28-9-1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố một số tài liệu về chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 28-9-1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam bác bỏ việc Philippines tuyên bố sáp nhập hầu hết lãnh thổ Trường Sa vào lãnh thổ Philippines.
Ngày 30-1-1980, Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố văn kiện về Tây Sa và Nam Sa.
Ngày 5-2-1980, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố vạch trần thủ đoạn xuyên tạc của Trung Quốc trong văn kiện ngày 30-1-1980.
Ngày 29-4-1980, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Malaysia phản đối việc Malaysia công bố bản đồ Malaysia lấn vào vùng biển và thềm lục địa Việt Nam tại vùng Trường Sa.
Ngày 8-5-1980, nhân chuyến viếng thăm và hội đàm với Malaysia, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã khẳng định đảo An Bang là của Việt Nam.
Tháng 6/1980, tại Hội nghị Khí tượng Khu Vực Châu Á II họp tại Genève, đại biểu Việt Nam tuyên bố trạm khí tượng của Trung Quốc tại Sanhudao (đảo Hoàng Sa của Việt Nam) là bất hợp pháp. Kết quả là trạm Hoàng Sa của Việt Nam được giữ nguyên trạng trong danh sách các trạm như cũ.
Ngày 13-6-1980, Việt Nam yêu cầu OMM đăng ký trạm khí tượng Trường Sa vào mạng lưới OMM.
Tháng 12/1981, Tổng cục Bưu điện Việt Nam điện cho Chủ tịch Ủy ban đăng ký tần số tại Genève phản đối việc Trung Quốc được phát một số tần số trên vùng trời Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Tháng 12/1981, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố sách trắng: “Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam”.
Tháng 6/1982, Tân Hoa xã loan tin là một hải cảng lớn được xây dựng tại Hoàng Sa.
Tháng 10/1982, tại Hội nghị toàn quyền của UIT, đại biểu Việt Nam tuyên bố không chấp nhận việc thay đổi phát sóng đã được phân chia năm 1978 tại Genève.
Ngày 12-11-1982, Chính phủ Việt Nam công bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
Ngày 4 tháng 2 năm 1982, Chính phủ Việt Nam thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.
Ngày 9-12-1982, Chính phủ Việt Nam lập huyện Trường Sa. Đến ngày 28-12-1982, Chính phủ Việt Nam quyết định huyện Trường Sa được nhập vào tỉnh Phú Khánh.
Tháng 1/1983, Hội nghị Hành chính Thế giới về thông tin vô tuyến đồng ý sẽ xem xét đề nghị của Việt Nam về việc phát sóng trên vùng trời Hoàng Sa và Trường Sa tại hội nghị sắp tới.
Cũng tháng 1/1983, Hội nghị Hàng không Khu vực châu Á Thái Bình Dương họp ở Singapore. Trung Quốc muốn mở rộng FIR Quảng Châu lấn vào FIR Hà Nội và FIR thành phố Hồ Chí Minh, nhưng Hội nghị quyết định duy trì nguyên trạng.
Từ ngày 4 đến 16-4-1984, đoàn đại biểu Quốc hội CHXHCNVN và đoàn đại biểu tỉnh Phú Khánh thăm huyện Trường Sa. Thứ trưởng Bộ Thủy sản Việt Nam Vũ Văn Trác đi khảo sát nghề cá tại huyện Trường Sa.
Ngày 25-4-1984, Ủy ban Địa danh Trung Quốc công bố tên mới cho các đảo, bãi, đá trong Biển Đông trong đó có đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Ngày 6-5-1984, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối việc đặt tên của Trung Quốc.
Tại Hội nghị Tổ chức Thông tin Vũ trụ Quốc Tế (INTU SAT) lần thứ 13 họp tại Bangkok, đại biểu Việt Nam đã phản đối việc Trung Quốc sử dụng những bản đồ ghi Hoàng Sa, Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, Nam Sa) là của Trung Quốc.
Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối Malaysia chiếm đóng đảo Hoa Lau trong quần đảo Trường Sa. Việt Nam phản đối việc ngày 1-6-1984 Quốc hội Trung Quốc tuyên bố việc thiết lập khu hành chính Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Tây Sa, Nam Sa.
Vào đầu năm 1985, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam ra thăm quần đảo Trường Sa.
Năm 1986, ông Hồ Diệu Bang, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng Lưu Hoa Thanh, Trương Trọng Tiến đi thị sát Hoàng Sa.
Tháng 5/1987, Đô đốc Giáp Văn Cường, Tư lệnh Hải quân Việt Nam ra thăm quần đảo Trường Sa.
Từ 16-5 đến 6-6-1987, hải quân Trung Quốc tập trận tại vùng biển Trường Sa.
Tháng 10/1987, hải quân Trung Quốc diễn tập quân sự tại Tây Thái Bình Dương và Nam Biển Đông.
Ngày 10-11-1987, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên đá Louisa (Nandong Jiao) (113°– 6°8).
Tháng 1/1988, một lực lượng lớn tàu chiến, có nhiều tàu khu trục và tàu tên lửa, đi từ đảo Hải Nam xuống phía Nam, trong đó có bốn chiếc được phái đến khu vực quần đảo Trường Sa, khiêu khích và cản trở hoạt động của hai tàu vận tải Việt Nam trong khu vực bãi đá Chữ Thập và bãi đá Châu Viên là hai bãi san hô còn đang lập lờ mặt nước. Quân lính Trung Quốc cắm cờ trên hai bãi đá trên, đồng thời cho tàu chiến thường xuyên ngăn cản, khiêu khích các tàu vận tải của Việt Nam đang tiến hành những hoạt động tiếp tế bình thường giữa các đảo do quân đội Việt Nam bảo vệ. Trong đợt hoạt động trên, Trung Quốc đã thành lập một Bộ tư lệnh đặc biệt, sử dụng lực lượng của hạm đội Nam Hải, được tăng cường một bộ phận của hạm đội Đông Hải và họ thường xuyên dùng trên 20 tàu các loại ở khu vực quần đảo Trường Sa.
Ngày 14-3-1988, giữa Trung Quốc và Việt Nam đã nổ ra cuộc chiến đấu trên biển Nam Trung Quốc. Cuộc chiến đấu này mặc dù chỉ diễn ra trong thời gian 28 phút nhưng nó đã làm cả thế giới quan tâm theo dõi. Trung Quốc sử dụng một biên đội tàu chiến đấu gồm sáu chiếc, trong đó có ba tàu hộ vệ số 502, 509 và 531 trang bị tên lửa và pháo cỡ 100 mm, vô cớ tiến công bắn chìm ba tàu vận tải Việt Nam đang làm nhiệm vụ tiếp tế ở các bãi đá Lan Đao, Cô Lin, Gac Ma thuộc cụm đảo Sinh Tồn của Việt Nam. Tàu vận tải số 64 của hải quân Việt Nam chở đầy binh lính bị bắn chìm tại chỗ, tàu đổ bộ số 505 và một tàu vận tải khác số 605 bị bắn trọng thương, kéo theo đám cháy và cột khói đen ngòm. Tàu đổ bộ số 505 bị chìm trên đường về, còn tàu đổ bộ số 605 thì bị mắc cạn. Cuộc chiến đấu không cân sức trên giữa các tàu vận tải của Việt Nam với các tàu chiến của Trung Quốc, vẻn vẹn chỉ diễn ra có 28 phút đã kết thúc với kết quả phía Việt Nam có một tàu bị chìm tại chỗ, hai tàu bị thương, chết và bị thương 20 người, mất tích 74 người. Còn phía Trung Quốc chỉ có một số nhân viên khảo sát và nhân viên khác trên đảo bị thương, ngoài ra không bị tổn thất gì, đây là một trận chiến đấu trên biển mà phía Trung Quốc cho là “đánh gọn và đẹp mắt” (sic!).
Về sự kiện xảy ra ngày 14-3-1988, Trung Quốc nói rằng: “Trung Quốc buộc phải phản kích để tự vệ”. Theo cách nói đó, có nghĩa là hải quân Việt Nam là kẻ tấn công (bằng hai tàu vận tải!), còn hải quân Trung Quốc là kẻ phòng thủ tự vệ. Sau các va chạm trên, hải quân Trung Quốc tiếp tục ngăn cản các hoạt động tiếp tế do tàu Việt Nam thực hiện.
Tính đến ngày 6-4-1988, Trung Quốc đã chiếm đóng: Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.
Ngày 3-1-1989, Trung Quốc đặt bia chủ quyền trên các bãi họ chiếm được trong năm 1988: Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.
Năm 1988, chính phủ CHXHCNVN đã thông báo cho Liên hợp quốc, gửi nhiều công hàm phản đối đến Bắc Kinh và đặc biệt là các công hàm ngày 16, 17, 23 tháng 3/1988 đề nghị hai bên thương lượng giải quyết vấn đề tranh chấp. Trung Quốc tiếp tục chiếm giữ các bãi đá đã chiếm được và khước từ thương lượng. Ngày 14-4-1988, Bộ Ngoại giao CHXHCNVN phản đối việc Quốc hội Trung Quốc sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải Nam [Nghị quyết ngày 13-4-1988 thành lập tỉnh Hải Nam].
Tháng 4/1988, Bộ Ngoại giao CHXHCNVN công bố Sách Trắng: “Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và luật pháp quốc tế”.
Ngày 14-8-1989, Chính phủ Việt Nam quyết định thành lập Cụm Kinh tế – Khoa học – Dịch vụ trên vùng bãi ngầm Tứ Chính, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Tần, Phúc Nguyên thuộc thềm lục địa Việt Nam có toạ độ 7 – 8o3 B , 109 – 112 o20 Đ.
Ngày 2-10-1989, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố bác bỏ luận điệu trong bản tuyên bố của Trung Quốc ngày 28-4-1989, trong đó người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lên án Việt Nam xâm phạm trái phép một số đảo và cù lao tại bãi Vạn An và Bãi Vạn Nhã thuộc “quần đảo Nam Sa”.
Ngày 9-3-1990, Trung Quốc kết thúc đợt khảo sát khoa học ở quần đảo Trường Sa bắt đầu từ ba năm trước.
Ngày 18-3-1990, nhiều tàu đánh cá từ Quảng Châu đến đánh cá ở Trường Sa.
Ngày 16-4-1990, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi bản ghi nhớ cho Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, phản đối việc Trung Quốc cho nhiều tàu quân sự, tàu khảo sát, tàu đánh cá đến hoạt động trong vùng biển Việt Nam tại quần đảo Trường Sa.
Ngày 28-4-1990, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, phản đối việc Trung Quốc đã cho quân lính xâm chiếm bãi Én Đất trên quần đảo Trường Sa.
- Từ năm 1990 đến nay, khối Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Việt Nam đổi mới, làm bạn với tất cả các nước kể cả Trung Quốc và Mỹ, sự tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa giữa Trung Quốc và Việt Nam không còn gay gắt như trước, song số dự trữ dầu lửa lớn ở Biển Đông khiến Trung Quốc vẫn chưa chịu trả Hoàng Sa cho Việt Nam và các nước khu vực, và Trung Quốc vẫn tiếp tục tranh chấp với Việt Nam ở Trường Sa.
Tháng 8/1990, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đề nghị tiến hành khai thác chung khu vực quần đảo Trường Sa.
Ngày 1-12-1990 trong cuộc đi thăm Philippines, Thủ tướng Lý Bằng nói: “Chúng ta có thể tìm ra một giải pháp thích hợp đối với vấn đề Trường Sa với các bên hữu quan vào lúc thích hợp, nếu không phải là vào lúc này, tôi nghĩ chúng ta có thể gác lại vấn đề này và không để nó gây trở ngại trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng hữu quan”.
Ngày 1-2-1991, Trung Quốc xây dựng nhiều hải đăng trên các bãi đá ngầm mới chiếm được trong quần đảo Trường Sa.
Ngày 25-5-1991, Trung Quốc công bố kết quả 8 năm khảo sát khoa học ở Trường Sa kể từ năm 1984.
Ngày 4-7-1991 tại KuaLa Lumpur tổ chức một hội thảo không chính thức về giải quyết các tranh chấp trên vùng Biển Đông, Trung Quốc có cử đoàn cán bộ tham gia, người phát ngôn Bắc Kinh tuyên bố việc tham gia như thế không có nghĩa là Trung Quốc đã thay đổi lập trường và nói: “Trung Quốc chủ trương giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình, Trung Quốc sẵn sàng cùng các nước liên quan thảo luận con đường và phương pháp cùng khai thác”.
Từ ngày 15 đến 18-7-1991, do sáng kiến của Indonésia, một hội nghị quốc tế đã được tổ chức giữa các quốc gia trong khu vực về vấn đề quần đảo Trường Sa. Bản thông cáo cuối cùng khuyến khích đối thoại và đàm phán.
Ngày 10-11-1991, các nhà lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc ký tại Bắc Kinh thông báo chung về bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Ngày 25-2-1992, Quốc hội Trung Quốc công bố luật lãnh hải và vùng tiếp giáp Trung Quốc, quy định lãnh hải rộng 12 hải lý và lãnh thổ Trung Quốc giữa bốn quần đảo Đông, Tây, Nam, Trung Sa và đảo Điếu Ngư. Việt Nam đã lên tiếng công khai phản đối sự kiện này.
Năm 1994, Việt Nam phản đối Trung Quốc đã xâm phạm thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam khi Trung Quốc ký với Công ty Crestones (Mỹ) cho phép thăm dò khai thác dầu mà Trung Quốc gọi là hợp đồng Vạn An Bắc 21.
Ngày 18-4-1994, ông R.C. Thompson, Chủ tịch Công ty Năng Lượng Crestones (Mỹ) ra thông báo với báo chí, nói rằng họ đang tiến hành khảo sát địa chấn và chuẩn bị thăm đảo để đánh giá tiềm năng dầu khí của khu vực, gọi là hợp đồng “Vạn An Bắc 21″. Thông báo nói rằng: “Việc nghiên cứu khoa học và kế hoạch khai thác thương mại trong tương lai là những bước phát triển mới nhất của lịch sử nghiên cứu khoa học và thăm dò ở Biển Nam Trung Hoa và Khu vực Vạn An Bắc của Trung Quốc, bắt đầu từ những báo cáo năm 200 trước Công Nguyên vào thời Hán Vũ Đế!”
Trước năm 1957, đã có nhiều công ty nước ngoài khảo sát địa vật lý và khoan thăm dò ở thềm lục địa Nam Việt Nam, trong đó có hai giếng đã phát hiện dầu thương mại. Vào cuối những năm 1970, có nhiều công ty như AGIP (Ý), DIMINEX (CHLB Đức), BOW VALLEY (Canada) đã thăm dò 5 lô dầu ở thềm lục địa miền Nam Việt Nam. Sau đó đến 1979, các công ty trên chấm dứt hoạt động. Tháng 9/1975, Tổng cục Dầu khí Việt Nam được thành lập nhằm thúc đẩy hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí. Thềm lục địa Việt Nam rộng chừng 1,3 triệu km2, được chia thành 171 lô với diện tích trung bình mỗi lô khoảng 8000 km2. Trong đó có 31 lô có độ sâu mực nước biển dưới 50 m, 35 lô độ sâu từ 50-100 m, 10 lô từ 100-250 m, 38 lô từ 200-2000 m và 57 lô là có mực nước sâu trên 2000 m. Trong phạm vi thềm lục địa Việt Nam có nhiều bồn trầm tích đệ tam có triển vọng chứa dầu khí. Cho đến cuối những năm 80, trên toàn thềm lục địa Việt Nam, chủ yếu ở phía Nam, đã khảo sát trên 100.000 km tuyến địa vật lý, khoan hàng chục giếng tìm kiếm thăm dò và đã phát hiện được ba mỏ dầu khí (Bạch Hổ, Rồng và Đại Hùng). Từ năm 1986, mỏ Bạch Hổ bắt đầu được khai thác. Sản lượng năm 1986: 0,04 triệu tấn, 1988: 0,68 triệu tấn, 1989: 1,5 triệu tấn, 1990: 2,7 triệu tấn, 1991: 3,96 triệu tấn. [PTS Nguyễn Hiệp, Phó Tổng Giám đốc Công ty Dầu khí Việt Nam, "Thăm dò và khai thác dầu khí ở Việt Nam", Khoa học và Tổ Quốc, (số 93), 1992, tr.5].
Việc thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam trên khiến người ta thấy tiềm năng vùng Biển Đông có nhiều triển vọng về dầu khí. Các tài liệu của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho con số trữ lượng từ 23 đến 30 tỷ tấn dầu tại vùng Nam Biển Đông. Chính số lượng dự trữ dầu lớn như vậy đã khiến cho sự tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa 
HẾT PHẦN 5

TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Thứ Năm, 21 tháng 7, 2016

Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – Nguyên nhân và giải pháp (Phần 4)


PHẦN 4
C- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG HOA, PHÁP TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TỪ THÁNG 8 NĂM 1945 ĐẾN THÁNG 4 NĂM 1956, KHI PHÁP XÂM CHIẾM TRỞ LẠI
Ngày 19-8-1945 Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2-9-1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (VNDCCH) ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ở Quảng trường Ba Đình, chấm dứt chế độ đô hộ của Pháp.
Sau khi Nhật bại trận, Pháp trở lại đô hộ Việt Nam, quân Tưởng Giới Thạch tiếp quản những nơi quân đội Nhật chiếm đóng từ phía Bắc vĩ tuyến 16. Cả hai nước Pháp và Trung Hoa đều tiếp tục tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Việt Nam bận lo kháng chiến chống Pháp trong khi quân Pháp làm chủ Biển Đông.
Quân Nhật rút khỏi quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa vào năm 1946, Pháp trở lại Việt Nam và làm chủ Biển Đông, lập tức cử một phân đội bộ binh Pháp đổ bộ từ tàu Savorgnan de Brazza đến thay thế quân đội Nhật từ tháng 5/1946, nhưng đơn vị này chỉ ở đó trong vài tháng. Trong thời gian từ 20 đến 27/5/1946, đô đốc D’Argenlieu, Cao ủy Đông Dương cũng đã phái tốc hạm L’Escarmouche ra nắm tình hình đảo Hoàng Sa (Pattle) thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Vào lúc quân đội viễn chinh Pháp và Chính phủ VNDCCH do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đang bận đối phó với cuộc chiến tranh toàn diện sắp xảy ra, thì ngày 26-10-1946, lợi dụng thời cơ, hạm đội đặc biệt của Trung Hoa dân quốc gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số đại diện của các cơ quan và 59 binh sĩ thuộc Trung đội độc lập về cảnh vệ của hải quân (tiền thân của quân thủy đánh bộ) xuất phát từ cảng Ngô Tùng ngày 9-10-1946. Ngày 29-11-1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên tới đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đây. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa (mà lúc này Trung Quốc còn gọi là Đoàn Sa, chưa phải mang tên Nam Sa – tác giả nhấn mạnh).
Trong phiên họp ngày 11-10-1946, Ủy ban liên bộ về Đông Dương thuộc Chính phủ lâm thời Pháp quyết định cần khẳng định quyền của Pháp đối với quần đảo Hoàng Sa và thể hiện việc tái chiếm bằng việc xây dựng một đài khí tượng. Đại tướng Juin cho rằng “lợi ích cao nhất” của nước Pháp là phòng ngừa mọi ý đồ của một cường quốc nào muốn chiếm lại các đảo có khả năng kiểm soát việc ra vào căn cứ tương lai Cam Ranh, con đường hàng hải Cam Ranh – Quảng Châu – Thượng Hải [Thư số 199/DN/S. col ngày 7-10-1946 của Đại tướng Juin, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp tại Paris].
Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp trên của Trung Hoa dân quốc và ngày 17-10-1947 Thông báo hạm Tonkinois của Pháp được phái đến Hoàng Sa để yêu cầu quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Phú Lâm nhưng họ không rút. Pháp gửi một Phân đội lính trong đó có cả quân lính “Quốc gia Việt Nam” đến đóng một đồn ở đảo Pattle (Hoàng Sa). Chính phủ Trung Hoa dân quốc phản kháng và các cuộc thương lượng được tiến hành từ ngày 25-2 đến ngày 4-7-1947 tại Paris. Tại đây, Chính phủ Trung Hoa dân quốc đã từ chối không chấp nhận đề xuất của Pháp nhờ trọng tài quốc tế giải quyết. Ngày 1-12-1947, Bộ Nội vụ Chính quyền Tưởng Giới Thạch công bố tên Trung Hoa cho hai quần đảo và đặt chúng thuộc lãnh thổ Trung Hoa.
Vào cuối năm 1946 đầu năm 1947, Việt Nam đã giành được độc lập, không còn ràng buộc vào Hiệp định Patenôtre 1884 với Pháp. Song Pháp vẫn cho rằng theo Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, VNDCCH vẫn còn nằm trong khối Liên hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc về Pháp, nên Pháp vẫn thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống lại xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chính quyền Pháp bổ sung quân sự bằng cách đóng quân và thực hiện quản lý trên hai quần đảo. Điều này chứng tỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo đã được củng cố vững chắc từ thời Pháp thuộc.
Do Chính phủ VNDCCH kháng chiến chống Pháp và hải quân Pháp làm chủ Biển Đông, nên với Hiệp định ngày 8-3-1949, Pháp gây dựng được chính quyền thân Pháp còn gọi là Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu, đối đầu với chính quyền Cách mạng do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Trên thực tế, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân Pháp đang làm chủ Biển Đông trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thay mặt nhà nước Việt Nam.
Tháng 4 năm 1949, Đổng lý văn phòng của Quốc trưởng Bảo Đại là Hoàng thân Bửu Lộc, trong một cuộc họp báo tại Sài gòn đã công khai khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đã từ lâu đời trên quần đảo Hoàng Sa.
Vào ngày 1-10-1949, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập ở lục địa Trung Quốc, Trung Hoa dân quốc do Tưởng Giới Thạch cầm đầu rút ra Đài Loan. Tháng 4/1950, đồn lính Trung Hoa dân quốc chiếm đóng bất hợp pháp ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée) thuộc quần đảo Hoàng Sa rút lui. Còn đồn lính của Pháp đóng ở đảo Hoàng Sa (Pattle) vẫn còn duy trì. Đến năm 1954, Pháp đã chính thức trao lại quyền quản lý cho Chính phủ Việt Nam.
Ngày 14-10-1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa. Thủ hiến Trung Phần là Phan Văn Giáo đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành ở quần đảo Hoàng Sa.
Hội nghị San Francisco có 51 quốc gia tham dự từ ngày 5-9 đến ngày 8-9-1951 ký kết hòa ước với Nhật. Ngày 5-9-1951, họp khoáng đại, Ngoại trưởng Gromyko đề nghị 13 khoản tu chính. Khoản tu chính liên quan đến việc Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam. Khoản tu chính này đã bị Hội nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận. Như vậy, cái gọi là danh nghĩa chủ quyền Trung Quốc đối với các quần đảo ngoài khơi Biển Đông đã bị cộng đồng quốc tế bác bỏ trong khuôn khổ một Hội nghị quốc tế.
Ngày 7-9-1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu của Chính phủ Bảo Đại long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam: “Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde, nous affirmons nos droits sur les îles Spratley et Paracels qui de tout temps ont fait partie du Viet Nam”.
Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận gì về lời tuyên bố này.
Kết thúc hội nghị là ký kết hòa ước với Nhật ngày 8-9-1951. Trong hòa ước này có điều 2, đoạn 7 ghi rõ: “Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracels và Spratly“.
Song đến đây, tình hình chính trị thế giới đã bắt đầu biến chuyển, chiến tranh lạnh giữa hai khối Tư bản chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu và khối Xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu đã bắt đầu tác động đến Việt Nam. Do đó chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa ngày càng bị tranh chấp, sự bảo vệ chủ quyền trở nên hết sức khó khăn do có nhiều thế lực quốc tế can thiệp.
Ngày 24-8-1951, lần đầu tiên Tân Hoa xã lên tiếng tranh cãi về quyền của Pháp và những tham vọng của Philippines, và kiên quyết khẳng định quyền của Trung Quốc.
Khi ra thông báo về bản dự thảo Hiệp ước với Nhật ở San Francisco, ngày 15-8-1951, Bộ trưởng Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai ra bản tuyên bố công khai khẳng định cái gọi là «tính lâu đời» của các quyền của Trung Quốc đối với quần đảo, trong khi Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa dân quốc không hề tham dự hội nghị này.
Cũng lợi dụng cục diện chiến tranh lạnh đang xảy ra, để giành giật thế lực ở Biển Đông, phái đoàn Liên Xô đề xuất giao cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đề nghị này đã không được Hội nghị chuẩn nhận, song vẫn là cái cớ để Cộng hòa nhân dân Trung Hoa lên tiếng. Dù sao, sau năm 1950, ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không còn quân nước ngoài nào chiếm đóng, mà chỉ có lực lượng trú phòng Việt Nam của chính quyền Bảo Đại.
Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7-1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước Việt Nam. Điều 1 qui định đường ranh tạm thời về quân sự được ấn định bởi sông Bến Hải (ở vĩ tuyến 17). Đường ranh tạm thời này cũng được kéo dài ra bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài khơi theo điều 4 của Hiệp định. Cũng theo điều 14 của bản Hiệp định, trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử đưa lại sự thống nhất cho Việt Nam, bên đương sự và quân đội do thỏa hiệp tập kết ở khu nào sẽ đảm nhiệm việc hành chánh trong khu tập kết đó. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đặt dưới sự quản lý hành chánh của phía chính quyền quản lý miền Nam vĩ tuyến 17.
Như thế, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới sự quản lý hành chánh của chính quyền ở phía Nam vĩ tuyến 17, lúc ấy hai quần đảo này chưa có sự chiếm đóng của bất cứ quân đội nước nào ngoài quân đội Pháp. Chính quyền ở Phía Nam vĩ tuyến 17 phải chịu trách nhiệm quản lý hai quần đảo trên ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam dưới vĩ tuyến 17.
Tháng 4/1956, khi quân viễn chinh Pháp rút khỏi Miền Nam Việt Nam, Philippines nêu vấn đề chủ quyền.

D – HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG QUỐC, PHÁP, VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ CÁC NƯỚC KHÁC TRONG KHU VỰC TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TỪ NĂM 1956 ĐẾN 1975
Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ và ký Hiệp định Genève 20-7-1954, khiến tháng 4/1956 quân Pháp phải rút lui khỏi Việt Nam, để lại khoảng trống bố phòng ở Biển Đông. Các nước trong khu vực trong đó có Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Trung Hoa dân quốc (Đài Loan) và Philippines cho đây là cơ hội tốt để chiếm đóng trái phép Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Khi ấy, quân đội Quốc gia Việt Nam sau gọi là Việt Nam cộng hòa (VNCH) đã chiếm đóng các đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa bao gồm đảo Hoàng Sa (Pattle). Ngày 1-6-1956, Ngoại trưởng chính quyền VNCH Vũ Văn Mẫu ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vài hôm sau, Pháp cũng nhắc lại cho Philippines biết những quyền hạn mà Pháp đã có đối với hai quần đảo trên từ năm 1933.
Ngày 22-8-1956, lục hải quân VNCH đổ bộ lên các đảo chính của quần đảo Trường Sa và dựng bia, kéo cờ. Sau khi trấn giữ ở các đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa, ngày 22-8-1956, lực lượng hải quân của Chính phủ VNCH đã đổ bộ lên các hòn đảo chính của nhóm Trường Sa, dựng một cột đá và trương quốc kỳ.
Tháng 10/1956, hải quân Đài Loan đến chiếm đảo Ba Bình (Itu – Aba). Ngày 22-10-1956, sắc lệnh số 143–N của Tổng Thống VNCH thay đổi địa giới các tỉnh và tỉnh lỵ tại “Nam Việt” (Nam Bộ). Trong danh sách các đơn vị hành chánh “Nam Việt” đính kèm theo sắc lệnh có những thay đổi tên mới, trong đó có tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được gọi là tỉnh Phước Tuy và đảo Spratly thuộc tỉnh Phước Tuy được gọi là Hoàng Sa cùng tên với quần đảo phía Bắc là Paracels.
Trong khi ấy, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng đã nhanh chóng chiếm giữ đảo Phú Lâm (Ile Boisée), đảo lớn nhất của quần đảo Hoàng Sa, song hành với việc Đài Loan chiếm giữ đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa. Một tình hình hết sức phức tạp, đen tối cho chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Song từ sau Hiệp định Genève mà Trung Quốc cũng đã ký, chính quyền phía Nam mới là chính quyền có trách nhiệm quản lý chủ quyền Ḥoàng Sa và Trường Sa, vì hai quần đảo này nằm phía dưới vĩ tuyến 17.
Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 chỉ ủng hộ Tuyên bố 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, và những biểu hiện khác của Chính phủ VNDCCH vào thời gian này không có giá trị pháp lý quốc tế về sự từ bỏ chủ quyền ở Hoàng Sa.
Ngày 13-7-1961, Sắc lệnh số 174–N của Tổng thống VNCH đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy tên là xã Định Hải trực thuộc quận Hòa Vang.
Trong sắc lệnh trên, ghi rằng: Quần đảo Hoàng Sa trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên, nay đặt thuộc tỉnh Quảng Nam (Điều 1). Đặt đơn vị hành chính xã bao gồm trọn quần đảo này được thành lập và lấy danh hiệu là xã Định Hải, trực thuộc quận Hòa Vang. Xã Định Hải dưới quyền một phái viên hành chính (Điều 2). Tháng 2/1959, nhiều dân chài Trung Quốc định đến đóng trên phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa, nhưng không thành công, bị hải quân VNCH bắt và trả lại phía Trung Quốc.
Ngày 13-7-1971, Bộ trưởng Ngoại giao VNCH, ông Trần Văn Lắm có mặt ở Manila đã lên tiếng nhắc lời yêu sách của Việt Nam và các danh nghĩa làm cơ sở cho những yêu sách đó trên quần đảo Trường Sa.
Ngày 6-9-1973, Bộ trưởng Bộ Nội vụ của chính quyền VNCH đã sửa đổi việc quản lý hành chính của Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy mà trước đây vào năm 1956, thời chính quyền Ngô Đình Diệm đã có sắc lệnh gọi quần đảo Spratly là quần đảo Hoàng Sa.
Thông cáo chung Thượng Hải năm 1972 giữa Mỹ và Trung Quốc, tạo sự nứt rạn không thể hàn gắn giữa Liên Xô và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Trong khi đó cuộc chiến tranh ở Việt Nam đang ở giai đoạn gần kết thúc. Cục diện chính trị thế giới biến đổi đã ảnh hưởng đến Việt Nam, đến cả sự bảo vệ chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 11-1-1974, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố việc sáp nhập các đảo của quần đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy của Việt Nam cộng hòa là sự lấn chiếm lãnh thổ Trung Quốc và khẳng định lại các yêu sách của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 12-1-1974, chính phủ VNCH tuyên bố bác bỏ yêu sách của Trung Quốc.
Ngày 15-1-1974, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bắt đầu triển khai một lực lượng hải quân mạnh mẽ trong đó có nhiều tàu được ngụy trang thành tàu đánh cá và có phi cơ yểm trợ.
Bộ Tư lệnh hải quân VNCH đã điều động tuần dương hạm Lý Thường Kiệt đến Hoàng Sa để tuần phòng và canh chừng.
Sau khi phát hiện sự có mặt của quân đội Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại vùng Hoàng Sa với cờ dựng trên các đảo Quang Anh (Money), Hữu Nhật (Robert), lực lượng quân đội VNCH được tăng cường với khu trục hạm Trần Khánh Dư, tuần dương hạm Trần Bình Trọng, hộ tống hạm Nhật Tảo. Lực lượng tăng cường của Việt Nam cộng hòa có các toán biệt hải được lệnh đổ bộ đến các đảo hạ cờ của quân đội Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Vài vụ xô xát đã xảy ra, súng đã nổ trên đảo Quang Hòa (Duncan) và một đảo khác.
Ngày 16-1-1974, chính phủ VNCH đã ra tuyên cáo bác bỏ luận cứ của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đưa ra những bằng chứng rõ ràng về pháp lý, địa lý, lịch sử để xác nhận chủ quyền của VNCH trên hai quần đảo này.
Hai bên bắt đầu bố trí toàn bộ lực lượng, các chiến hạm hai bên cách nhau chừng 200 m. Sau đó hai bên bỗng tách rời nhau và cuộc hải chiến bắt đầu diễn ra vào lúc 10 giờ 25 phút ngày 19-1-1974. Một chiến hạm Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bị bốc cháy. Các chiến hạm Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mang số 281, 182 dồn sức đánh trả khiến chiến hạm Nhật Tảo bị trúng đạn trên đài chỉ huy và hầm máy chính, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà hy sinh. Sau hơn một giờ giao tranh, hai chiến hạm Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chìm, hai chiếc khác bị bắn cháy. Bên lực lượng VNCH ngoài hộ tống hạm Nhật Tảo bị chìm, còn có một số chiến hạm bị thương tổn, trong đó có một số binh sĩ bị bắt và mất tích. Một người Mỹ tên Gerald Kosh, là nhân viên dân sự thuộc văn phòng Tùy viên quốc phòng Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài gòn, được biệt phái làm liên lạc viên cạnh Bộ chỉ huy hải quân Quân Khu I Việt Nam cộng hòa cũng bị bắt [Nhật báo Chính Luận, số 2982, ngày 31-1-1974]. Kosh được trao trả lúc 12 giờ trưa ngày 31-1-1974. Ngày 17-2-1974, chính quyền Bắc Kinh trả tự do cho 43 quân nhân và nhân viên của VNCH tại Tân Giới (Hồng Kông).
Lầu Năm Góc được chính quyền Sài gòn yêu cầu can thiệp, quyết định đứng ngoài cuộc xung đột. Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Arthur Hummel cho chính quyền Sài gòn biết Mỹ không quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa.
Qua thông điệp ngoại giao được gởi đến tất cả các nước ký Hiệp định Paris (1973), chính quyền VNCH nhắc lại sự đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, yêu cầu Hội đồng Bảo an họp một phiên họp đặc biệt.
Ngày 1-2-1974, chính quyền Sài gòn quyết định tăng cường phòng thủ các đảo ở quần đảo Trường Sa, đưa lực lượng ra đóng ở 5 đảo thuộc Trường Sa. Qua Đại sứ ở Manila, chính quyền Sài gòn khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Ngày 1-2-1974, đoàn đại biểu của VNCH ra tuyên bố tại hội nghị của Liên hợp quốc về Luật Biển Caracas khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo, tố cáo Bắc Kinh đánh chiếm Hoàng Sa. Ngày 30-3-1974, đại biểu chính quyền VNCH khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội đồng Kinh tài Viễn Đông họp tại Colombia. Ngày 14-2-1975, Bộ Ngoại giao chính quyền VNCH công bố Sách trắng về Hoàng Sa và Trường Sa.
Tóm lại, Pháp xâm chiếm trở lại Việt Nam, dẫn đến cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Pháp vẫn làm chủ Biển Đông và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Hiệp định Genève năm 1954 quy định từ vĩ tuyến 17 trở xuống thuộc Chính quyền phía Nam quản lý. Khi Pháp rút quân tháng 4/1956, xảy ra chiến tranh lạnh giữa Liên Xô đứng đấu phe Xã hội chủ nghĩa và Mỹ đứng đầu phe Tư bản chủ nghĩa, Việt Nam bị chia cắt khiến hai chính quyền bị cuốn hút vào sự đối đầu, không có điều kiện bảo vệ toàn vẹn được chủ quyền để cho Trung Quốc chiếm từng phần rồi toàn thể Hoàng Sa, VNCH chỉ trấn giữ quần đảo Trường Sa song lại để cho Đài Loan chiếm đảo Ba Bình là đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa, để cho Philippines chiếm một số đảo, đá trong đó có Song Tử Đông ở Trường Sa.
Chính vì vậy, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các nước trong khu vực tranh chấp chủ quyền của Việt Nam cũng như Trung Quốc chiếm giữ trái phép hoàn toàn Hoàng Sa và Trường Sa trong thời kỳ này chính là những biến động chính trị ở Việt Nam cũng như trên thế giới, do Mỹ rút quân khỏi Việt Nam, không còn bảo vệ đồng minh VNCH, để cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực.
HẾT PHẦN 4


 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Đường lưỡi bò đi vào hát xẩm

(TNBĐ) -
Nhóm xẩm Hà thành đã góp chung tiếng nói cùng các văn nghệ sĩ cả nước trong việc ủng hộ phán quyết của Tòa án trọng tài thường trực Liên Hiệp Quốc (PCA) tại The Hague, Hà Lan về 'đường lưỡi bò' phi lý của Trung Quốc.


 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Loading...