Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc
ngày nay
Kỳ 8: Giang Thanh 'một bước lên trời'
|
Tro
tàn hỏa táng Lưu Thiếu Kỳ chưa kịp nguội, thì đến lượt Phó thủ tướng Đào Chú
- người dám đập bàn chỉ trích thẳng mặt Giang Thanh - phải nhận lấy “cái chết
lưu đày” ở An Huy giữa một ngày tuyết lạnh cuối năm 1969…
Ở tuổi xế chiều, hai vợ chồng Mao Trạch Đông -
Giang Thanh vượt qua những cách biệt về sở thích riêng trong cuộc sống hằng
ngày, để tìm đến “một chỗ chung” hòa hợp trên chính trường đang “nóng” của
những năm 1966 - 1976.
Cuốn “Bốn người vợ của Mao Trạch
Đông” viết: “Quan hệ hôn nhân của họ lúc bấy giờ đã trở
thành chủ yếu là quan hệ hôn nhân mang màu sắc chính trị. Do đó tại Đại hội
IX năm 1969 Giang Thanh đã ung dung một bước đến trời, trở thành Ủy viên Bộ
chính trị Trung ương Đảng.” (tr.175).
Đại hội trên kéo dài từ ngày 1 đến 24.4.1969 đưa
Giang Thanh lên đỉnh cao mới và chính thức nhận chìm Lưu Thiếu Kỳ (theo biểu
quyết từ Hội nghị lần thứ 12 - khóa VIII - Xem kỳ 7). Cuốn “Mười
năm cuối đời của Mao Trạch Đông” do Trần Trường Giang và Triệu Quế
Lai viết (*) nhận xét “quyết định sai lầm tai hại” của Đại
hội IX là đã tạo thế lực cho Giang Thanh (và“tập đoàn Lâm Bưu”)
lộng hành.
Mao Trạch Đông còn khẳng định đã “đưa vào
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc các nhân tố mới, có bầu
nhiệt huyết mới, tăng cường thêm sinh lực” (ám chỉ các “lãnh tụ” của
đại cách mạng văn hóa vừa được bầu vào BCH TW Đảng) song “Chủ tịch
không ngờ chúng đi ngược lại ý nguyện của Người (…) không những không thực
hiện được mục tiêu sự nghiệp của Chủ tịch mà còn gieo mầm bạo loạn cho Trung
Quốc sau này. Thật bất hạnh vô cùng”. Viết như thế, tác giả “Mười
năm cuối đời của Mao Trạch Đông” chođường lối và mục tiêu của Mao
Trạch Đông vẫn đúng, chỉ có tập đoàn Giang Thanh thực hiện sai.
Nhưng một số nhà nghiên cứu trong đó có Tân Tử Lăng nhận định khác
hẳn. Hãy lùi lại hơn nửa năm trước Đại hội IX ấy, tức vào tháng 8.1968, Hồng
vệ binh đem 3 cặp vợ chồng của Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tử Bình và Đào Chú ra quảng
trường Thiên An Môn đấu tố, bắt cả 6 người ngồi theo kiểu “bó gối”, thay nhau
đấm đá túi bụi. Đào Chú mang thương tích đầy người vì ông phản ứng dữ dội
nhất và cũng vì ông là đối tượng cá biệt có “ân oán riêng” với Giang Thanh.
Chuyện thế này:
Đào Chú thuộc thế hệ cách mạng kỳ cựu, làm Bí thư thứ nhất Cục Trung
Nam kiêm Chính ủy thứ nhất Đại quân khu Quảng Châu. Khi đại cách mạng văn hóa
sắp bùng nổ lớn, Mao Trạch Đông gọi ông về Bắc Kinh, giao giữ Thường trực Ban
bí thư, Phó thủ tướng, Cố vấn Tổ cách mạng văn hóa. Một lần nọ, Giang Thanh
dựa thế chồng mình “sai” Đào Chú mang chỉ thị đến Viện Khoa học xã hội…Đào
Chú chống lại, không đi. Giang Thanh trợn mắt, đập tay xuống thành ghế,
quát: “Ông phải đi. Không đi không được”. Đào Chú không khuất
phục, cũng đập tay xuống mặt bàn, hét trả: “Không đi ! Đây là tổ chức
của Đảng, bà can thiệp quá nhiều rồi !”
Câu nói Đào Chú “vừa đúng, vừa sai”.
Đúng vì bấy giờ Giang Thanh không phải là Ủy viên Trung ương Đảng nên chẳng
đủ tư thế để “sai bảo” hoặc “bắt bẻ” một Ủy viên Thường vụ Bộ chính trị như
Đào Chú được. “Sai” vì “Giang Thanh ra lệnh với thân phận hoàng hậu,
đại bất kính với hoàng hậu là đại bất kính với hoàng đế, làm sao Mao Trạch
Đông có thể bỏ qua”(Tân Tử Lăng). Nên chẳng ngạc nhiên chút nào khi Mao
Trạch Đông để yên cho Giang Thanh hành động, hạ chỉ điều một đám Hồng vệ binh
xâm nhập vào tòa nhà Quốc hội nhục mạ Đào Chú liên tục trong 6 giờ liền ngày
30.12.1966.
Đến chiều 4.1.1967, đoàn tạo phản to tiếng phê
phán Đào Chú “không đi theo đường lối Mao Chủ tịch” để ngay
tối hôm ấy bắc loa phóng thanh hô to khẩu hiệu “Đánh đổ Đào Chú !”quanh
“bức tường đỏ” Trung Nam Hải. Mấy ngày sau, Đào Chú không bao giờ nhận được
các tài liệu “tham khảo nội bộ” nữa, đường dây “điện
thoại đỏ” dành riêng cho ông cũng bị cắt bỏ thẳng thừng. Không mấy
chốc từ vị trí là nhân vật số 4 trong Đảng, Đào Chú trở thành “phạm nhân”
luôn có 2 tiểu đội canh giữ bên ngoài, 3 vọng gác thiết lập trong khuôn viên
nhà. Ngay phòng ngủ của ông cũng luôn luôn có các nhân viên đội đặc vụ lận
súng ngắn thay nhau đứng ở đầu giường suốt 24/24 giờ, không để ông ngủ yên, dường
như họ muốn dòm ngó xoi mói vào cả những giấc mộng không thành của người
Chính ủy Đại quân khu Quảng Châu năm nào. Tân Tử Lăng viết:
“Việc Đào Chú bị đánh đổ với tội danh “phái
bảo hoàng lớn nhất” đã chỉ ra phương hướng hành động cho các tổ chức tạo phản” do
Giang Thanh ra mặt ủng hộ để làm loạn quân đội, như phê phán Chủ nhiệm Tổng
cục chính trị Tiêu Hoa là “hạng chính khách tư sản” và bắt“Phó
tư lệnh Đại quân khu Nam Trung: Nhiếp Phượng Trí cho vào bao tải, đánh gãy 8
chiếc răng - Phó tư lệnh Đại quân khu Nam Kinh kiêm tư lệnh Hạm đội Đông Hải
Đào cũng bị dìm trong giếng nước tại nhà khách của hạm đội, đầu chúc xuống,
chết sặc. Nhiều tướng lĩnh cấp cao bị tùy tiện bắt giam, khám nhà, hành hạ,
có người tự sát, lãnh đạo Quân ủy trung ương lòng như lửa đốt”… (còn
nữa)
|
Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014
(Trung Quốc )- Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc ngày nay (Kỳ 8)
(TNBĐ) -Tro tàn hỏa táng Lưu Thiếu Kỳ chưa kịp nguội, thì đến lượt Phó thủ tướng Đào Chú - người dám đập bàn chỉ trích thẳng mặt Giang Thanh - phải nhận lấy “cái chết lưu đày” ở An Huy giữa một ngày tuyết lạnh cuối năm 1969…
TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
(Trung Quốc ) - Mao Trạch Đông, ngàn năm công và tội (Chương 26)
(TNBĐ) - Ở Trung Quốc, từ khi có trường học kiểu mới liền có phong trào học sinh. Từ thời đại Bắc Dương đến Tưởng Giới Thạch, phong trào học sinh xuất hiện trên vũ đài lịch sử với tư thế yêu nước, tiến bộ, cách mạng, trở thành lực lượng tiên phong thúc đẩy xã hội tiến bộ. Chưa một nhà thống trị nào có thể lợi dụng học sinh làm điều xấu. Chỉ có Mao Trạch Đông làm nổi việc này. Mao đã lợi dụng học sinh làm rối loạn cả xã hội, lật đổ cơ quan đảng và chính quyền các cấp, mượn bàn tay học sinh để giày vò các bạn chiến đấu hôm qua, đối thủ chính trị hôm nay.
TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Mao Trạch Đông, ngàn năm công và tội (Chương
26)
Chương 26: Nhân dân run rẩy trong cuộc khủng
bố đỏ
|
Ở Trung
Quốc, từ khi có trường học kiểu mới liền có phong trào học sinh. Từ thời đại
Bắc Dương đến Tưởng Giới Thạch, phong trào học sinh xuất hiện trên vũ đài
lịch sử với tư thế yêu nước, tiến bộ, cách mạng, trở thành lực lượng tiên
phong thúc đẩy xã hội tiến bộ. Chưa một nhà thống trị nào có thể lợi dụng học
sinh làm điều xấu. Chỉ có Mao Trạch Đông làm nổi việc này. Mao đã lợi dụng
học sinh làm rối loạn cả xã hội, lật đổ cơ quan đảng và chính quyền các cấp,
mượn bàn tay học sinh để giày vò các bạn chiến đấu hôm qua, đối thủ chính trị
hôm nay.
Từ 18-8 đến 26-11-1966, Mao 8 lần
tiếp tổng cộng 13 triệu Hồng vệ binh từ các nơi trong cả nước đến Bắc Kinh
“xâu chuỗi”, sự cuồng nhiệt sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông sôi lên sùng sục,
Mao là “mắt bão” làm cho cơn bão đỏ tạo phản tràn khắp Trung Hoa. Hồng vệ
binh được tâng bốc lên tận trời xanh, khiến họ nảy sinh ảo tưởng vô cùng tận.
Vào lúc con em dân thường bất bình vì các vị trí công tác tốt đều lọt vào tay
con em cán bộ, Mao kêu gọi đánh đổ “phái cường quyền đi con đường tư bản”, tức
là đánh đổ bố mẹ những học sinh được ưu đãi kìa, các học sinh xuất thân dân
thường liền đứng lên tạo phản. Để thoát khỏi thế bị động, học sinh con em cán
bộ cũng tham gia tạo phản với tư thế còn “tả” hơn, họ không lôi bố mẹ mình,
mà lôi cấp trên, đồng cấp hoặc cấp dưới của bố mẹ ra đấu. Bất kể là con em
cán bộ hay dân thường, tất cả đều phát điên. Mao ủng hộ và ra lệnh bảo vệ
những hoạt động tạo phản này. Quân đội và công an đều được lệnh cấm nổ súng
vào Hồng vệ binh, kể cả bắn doạ, bị chúng đánh cũng không được đánh trả. Hồng
vệ binh kéo nhau đi lục soát, đập phá, bắt bớ phê đấu cán bộ lâu năm, các
giáo sư và văn nghệ sĩ nổi tiếng. Họ không có sức đánh trả, nên chúng chẳng
gặp nguy hiểm gì, mà lại được nhiều không kể xiết. Đó là cơ sở tư tưởng sâu
xa của phong trào Hồng vệ binh.
Khởi đầu bằng việc đập phá tượng
Thích ca mâu ni trên Phật Hương Các ở Di Hoà Viên, Hồng vệ binh đã phá hoại
4.922 trong số 6.843 di tích cổ ở Bắc Kinh. Theo thống kê chưa đầy đủ, cả
nước có 10 triệu nhà bị lục soát, trong đó Bắc Kinh 11,4 vạn, Thượng Hải 10
vạn. Nhà riêng nguyên Bộ trưởng Giao thông Chương Bá Quân bị Hồng vệ binh
chiếm làm trụ sở, hàng vạn cuốn sách ông lưu trữ bị chúng đốt suốt ngày đêm
để sưởi ấm. Hơn 200 sinh viên Đại học Sư phạm Bắc Kinh kéo về Sơn Đông “san
bằng” mộ Khổng Từ. Lăng mộ của nhiều nhân vật lịch sử hoặc danh nhân như lăng
Viêm đế, mộ Hạng Vũ, Gia Cát Lượng. Thành Cát Tư Hãn, Chu Nguyên Chương, Ngô
Thừa Ân, Từ Bi Hồng… bị đập phá.
Mao còn tạo ra cuộc khủng bố đỏ,
cho Hồng vệ binh nông dân thả sức giết hại “kẻ xấu” (địa chủ, phú nông, phản
cách mạng, phái hữu, nhà tư bản, xã hội đen) để áp chế sự phản kháng của nhân
dân. Chỉ riêng hạ tuần tháng 8-1966, nội thành Bắc Kinh đã có hàng ngàn người
bị đập chết tươi.
Nhiều người khi ấy đã được chứng
kiến những cuộc tắm máu, những kiểu giết người cực kỳ man rợ như thời trung
cổ. Ôn lại chuyện trên, cựu Hồng vệ binh Trần Hướng Dương sau này viết:
“Vì sao những đứa trẻ mười mấy tuổi
đầu lại dã man giết người không chớp mắt như vậy? Vì từ nhỏ đã được giáo dục
hận thù. Thù địa chủ, thù nhà tư bản, thù Quốc Dân Đảng: Trả thù bằng thủ
đoạn tàn nhẫn là thiên kinh địa nghĩa, vấn đề duy nhất là không biết chĩa vào
đâu. Kè thù bên cạnh đã bị các bậc tiền bối quét sạch rồi, còn lại Tưởng Giới
Thạch và đế quốc lại ở quá xa, không với tới được. Đại cách mạng văn hoá vừa
nổ ra, mới đột nhiên biết quanh mình còn ẩn náu nhiều kẻ thù, chúng tôi vui
mừng đến phát cuồng, bao nhiêu sức lực dồn nén dều bung ra. Sự cuồng loạn ấy
chẳng những hiện nay không mấy ai tin, mà ngay bản thân chúng tôi nhớ lại
cũng không dám tin nữa. Những việc làm xấu xa của Hồng vệ binh thật đáng
nguyền rủa, nhưng chúng tôi cũng có đủ tư cách lớn tiếng hỏi lại: ai đã giáo
dục chúng tôi thành những thằng điên?
Băc Kình "nêu gương",
những vụ tàn sát lan ra cả nước. Huyện Đạo ở Hồ Nam là một trong những điển
hình. Khắp nơi là những bố cáo giết người của “toà án tối cao bần nông và
trung nông lớp dưới", những khẩu hiệu kêu gọi giết sạch 4 loại người,
(địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phái hữu).
Trong hai tháng 7 và 8 năm 1967,
Quan Hữu Chí, Trưởng ban vũ trang khu Thanh Đường đã chỉ uy dân quân dùng
cuốc xẻng, súng bắn chim, gậy gộc giết hại 207 người, kể cả trẻ em. Do công
lao trên, y được bầu là “phần tử tích cực học tập và vận dụng tư tường
Mao" cấp tỉnh năm 1967. Viên Phủ Lễ, Khu trưởng Lâm Phô tổ chức 120 dân
quân nòng cốt trong ba ngày giết 569 người.
Trần Đăng Nghĩa, Chủ tịch Hội Bần
nông Đại đội sản xuất Hạ Tưởng là thủ phạm chính trong một vụ giết người,
cưỡng dâm tập thể. Thấy vợ mới cưới của con em địa chủ Trần Cao Tiêu xinh
đẹp, y sinh lòng ghen ghét và sớm có ý đồ bất lương, thì nay thời cơ đến. Tối
26-8-1967. Nghĩa cho gọi Tiêu đến trụ sở đại đội và trói nghiến lại. Y cầm
giáo đâm một nhát vào dùi anh Tiêu, rồi khoát tay ra hiệu. 7,8 dân quân xông
vào dùng gậy đập anh Tiêu chết tươi. Để chứng tỏ mình “kiên quyết cách mạng”,
y dùng mã tấu cắt đầu anh Tiêu, cùng hai con em địa chủ, phú nông khác cũng
vừa bị đánh chết. Chị Tiêu (xuất thân bần nông) sợ quá trốn về nhà mẹ đẻ ở
làng khác, Nghĩa cho dân quân bắt chị trở lại, y tuyên bố các nơi khác vợ địa
chủ đều phải “phục vụ tập thể bần nông”.
Sau khi cơm no, rượu say, Chủ tịch
Hội Bần nông và dân quân, tất cả 12 tên, luân phiên cường hiếp chị Tiêu khi
ấy đang mang thai 3 tháng. Xong xuôi. Nghĩa không quên thực hiện “chính sách
của ĐCSTQ”: cho dân quân khiêng nạn nhân đã ngất xỉu đến nhà bần nông Trần
Nguyệt Cao, buộc chị làm vợ người nông dân già độc thân này.
Cô giáo Chu Quần ở Đại đội sản xuất
Hoành Lĩnh xuất thân bần nông, kết hôn với Tưởng Hán Chính xuất thân địa chủ,
họ đã có với nhau ba mặt con. Tưởng Hán Chính bị bắt ngay hôm đầu. Đêm
26-8-1967, Bí thư chi bộ Đường Hưng Hạo cùng Tiểu đoàn trưởng dân quân Tưởng
Văn Minh xông vào nhà bắt chị Chu đưa ra sân kho. Tại đây chị thấy dân quân
mang súng, mã tấu đang quây tròn quanh 14 người đều là con cháu địa chủ, phú
nông, họ đều bị trói giật cánh khuỷu bằng dây thép. Đường hạ lệnh dẫn họ lên
núi Mộc Phong, nơi có nhiều hang sâu hàng chục mét. Dọc đường, có người nhắc
Bí thư chi bộ vợ chồng Tưởng Hán Chính-Chu Quần còn ba trẻ nhổ, y cho người
quay lại bắt cả ba đứa mang theo. Tới nơi, y bắt mọi người đứng im không được
nhúc nhích, rồi tuyên bố: “Chúng tao là Toà án tối cao của bần nông, hôm nay
tuyên án xử tử hình tụi bay!” Bí thư chi bộ bắt đầu đọc tên, lần lượt giết
từng người một.
Lối hành hình của chúng mang “đặc
sắc bản địa”: bắt nạn nhân quỳ bên miệng hang, dùng xà beng quật vào sau não
cho gục xuống, rồi đạp xuống hang… Người thứ 3 là Tưởng Hán Chính, anh sợ hãi
không lê nổi đôi chân, bị dân quân lôi đến cửa hang. Mấy đứa trẻ sợ quá, vừa
khóc, vừa la hét. Người thứ 4 là thầy thuốc Đông y Tưởng Văn Phàm, ông ung
dung xin ngụm nước để đi vào cõi chết. Dân quân quát: “Làm gì có nước cho mày
uống?”. Ông nói: “Trước khi chết tôi xin ngụm nước có gì quá đáng đâu, ngày
xưa khi chặt đầu còn cho 3 chiếc bánh bao nóng!” Vừa nói xong đã bị đạp xuống
hang sâu.
Người thứ 8 là Chu Quần. Ba đứa trẻ
nhìn mẹ bị hại, khóc lóc thảm thiết. Không biết ngất đi trong bao lâu, Chu
Quần bỗng thấy tiếng gọi mẹ văng vẳng bên tai. Tỉnh lại, chị thấy đứa con gái
8 tuổi nằm bên, thì ra mấy cháu cũng bị ném xuống hang theo mẹ. Nhờ đống xác
người bị giết trước, hai mẹ con chị sống sót. Chị bảo con cởi trói cho mình.
Hôm sau, những kẻ giết người phát hiện dưới hang còn người sống sót, liền ném
đá xuống. Hai mẹ con từ tầng trên rơi xuống tầng dưới nơi có những góc chết.
Chị phát hiện chồng và hai đứa con trai nằm ở đó. Cả nhà may mắn thoát chết,
một cuộc đoàn tụ hiếm hoi và thảm thương trên đống xác người dưới hang sâu
tối tăm, lạnh lẽo. Anh Tưởng đã hoảng loạn, sợi dây thép trói chặt quá không
làm sao cởi ra nổi, anh đi đi lại lại trên đống xác người, miệng lảm nhảm như
mê sảng. Chẳng biết mấy ngày đêm qua đi, cả ba đứa trẻ lịm dần tất thở. Anh
Tưởng khát, chị Chu lấy áo thấm vào vũng nước trộn máu, vắt ra cho chồng
uống, Song anh không nuốt nổi, gục đầu xuống lìa đời. Sau nhờ hai học sinh
đến cứu, chị thoát chết, và vụ giết người rùng rợn này mới có ngày được phơi
trần.
Theo tư liệu điều tra của tỉnh Hồ
Nam, trong 66 ngày từ 13-8 đến 17-10-1967, huyện Đạo có 4.519 người thiệt
mạng, gồm 4.193 người bị giết, 326 người bị buộc phải tự sát.
Trong cơ cấu chính trị đương thời,
số “tiện dân” nghe nói chiếm 5% này hoàn toàn không phải có thể có hoặc
không, mà nhất thiết phải có. Đó là chiến lược quan trọng để ổn định 95% kia.
Ý nghĩa của hòn đá đệm chân này là: có thể làm cho càng nhiều người về tinh
thần say sưa với vị trí “người thống trị” mà quên mất cảm giác bị trị, cảm
thấy mình may mắn thuộc 95% và lo sợ bị rơi vào 5% kia, từ đó được cân bằng
tâm lý trong sợ hãi. Nó khiến đông đảo công chúng dịu đi nỗi đau thiếu thốn
vật chất và sự nghẹt thở về tinh thần. Đó là lý do vì sao sau cải cách ruộng
đất, Mao Trạch Đông vẫn nhấn mạnh “lấy đấu tranh giai cấp làm then chốt”,
kích động sự đối lập giai cấp ở nông thôn.
|
Thứ Ba, 15 tháng 7, 2014
(TNBĐ)-3 thủ đoạn chính trong ý đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
(TNBĐ) - Để thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc đã và đang dùng những mưu kế gì? Có thể nói nhà cầm quyền Bắc Kinh đã và đang dùng tất cả 36 mưu kế mà Tôn Tử đã truyền lại cho họ và còn hơn thế nữa. Có thể khái quát theo logic gồm 3 thủ đoạn chính của họ và đề xuất cách phòng chống.
Thứ nhất, thủ đoạn từ không mà làm thành có
Trung Quốc đã và sẽ không bao giờ có thể đưa ra các bằng chứng lịch sử cũng như pháp lý về chủ quyền của họ tại Biển Đông. Theo Hiến chương Liên hợp quốc thì việc dùng vũ lực chiếm đoạt một vùng lãnh thổ không đem lại chủ quyền cho bên chiếm đoạt.
Chính vì không có lý, nên Trung Quốc đã dùng kế "biến không thành có”. Họ nhận bừa rằng mình có chủ quyền với Biển Đông từ 2000 năm trước. Về mặt pháp lý quốc tế, Trung Quốc nói rằng UNCLOS 1982 không áp dụng được với Biển Đông vì vùng biển này thuộc chủ quyền của Trung Quốc từ trước khi UNCLOS 1982 ra đời (trên cơ sở thống nhất với sự ngụy tạo, nhận bừa chủ quyền với biển Đông từ 2000 năm trước). Ở đây, nhà cầm quyền Trung Quốc sử dụng các mưu kế như: "Vô trung sinh hữu” (từ không mà làm thành có), "Phản khách vi chủ” (từ khách thành chủ), "Kim thiền thoát xác” (ve sầu lột xác)…
Giải pháp ở đây là chúng ta phải đưa ra công luận quốc tế các bằng chứng chủ quyền của Việt Nam đối với Biển Đông; đồng thời vạch trần việc "nhận bừa” của Trung Quốc, như các loại bản đồ mang tính bành trướng (bản đồ ngang 9 đoạn, bản đồ dọc 11 đoạn)...
Cũng cần vạch rõ, về việc Trung Quốc nói rằng UNCLOS 1982 không áp dụng được với Biển Đông, có khác nào nói Hiến chương Liên hợp quốc ra đời sau khi nước Mỹ ra đời thì Hiến chương Liên hợp quốc không áp dụng được với lãnh thổ nước Mỹ, hay nước Mỹ không cần tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc?!... Việc Trung Quốc không tham gia vụ Philippines kiện nước này ra Tòa án quốc tế, chứng tỏ Trung Quốc biết rõ điểm yếu của mình, nên đã dùng kế "Tẩu vi thượng sách” (tốt nhất là trốn chạy). Do đó, các nước ASEAN liên quan đến quyền lợi trên Biển Đông cần tấn công thật mạnh vào điểm yếu pháp lý của Trung Quốc, vạch trần cho cộng đồng quốc tế thấy rõ tính phi pháp trong tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.
Thứ hai, thủ đoạn cô lập đối phương và vô hiệu hóa cộng đồng quốc tế
Đuối lý, Trung Quốc thực sự lo lắng bị kiện ra tòa án quốc tế. Từ đó, họ đã nghĩ ra "mẹo” là tiến hành cô lập Việt Nam, Philippines cũng như các nước trong ASEAN; vô hiệu hóa cộng đồng quốc tế theo cách "viễn giao cận công”.
Vì thế, Trung Quốc chỉ muốn đàm phán song phương, đồng thời tiến hành các hành động xâm chiếm trên thực địa với từng nước, trong các thời điểm có "khoảng trống quyền lực” do các nước lớn khác đang "bận rộn” với các vấn đề khác. Ở đây, nhà cầm quyền Trung Quốc dùng các mưu kế như "Sấn hỏa đả kiếp” (nhân cháy nhà mà cướp của), "Thuận thủ khiên dương” (thuận tay dắt dê), "Hỗn thủy mạc ngư” (đục nước bắt cá),…
Trung Quốc bằng nhiều chiêu bài ngoại giao rất muốn cộng đồng quốc tế im lặng và khoanh tay đứng nhìn; làm cho cộng đồng quốc tế mất cảnh giác về các ý đồ và hành động nham hiểm của Trung Quốc, ngộ nhận về sự "trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc. Ở đây, nhà cầm quyền Trung Quốc sử dụng các mưu kế như: "Man thiên quá hải” (giấu trời qua biển), "Tiếu lý tàng đao” (cười nụ giấu dao), "Viễn giao cận công” (xa thì giao thiệp, gần thì dùng vũ lực), "Phao chuyên dẫn ngọc” (ném gạch đi đưa ngọc tới)…
Chính vì thế, các nước ASEAN cần đoàn kết trong một mục đích chung; cần để các quốc gia gần gũi khác như như Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga... thấy được rằng nếu họ khoanh tay đứng nhìn Trung Quốc "cận công” Việt Nam và Philippines xong sẽ đến lượt Trung Quốc "cận công” Malaysia, Bruney, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ… Vì với tư tưởng bành trướng "bình thiên hạ” thì Trung Quốc sẽ "cận công” không ngừng, cho đến khi nào thiên hạ nằm dưới sự kiểm soát của "thiên triều” mới thôi. Từ đó, phải làm cho cộng đồng quốc tế nhận rõ âm mưu của Trung Quốc để cùng nhau đoàn kết, chống lại mưu đồ bành trướng bá quyền Trung Quốc.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Loading...