Mao Trạch Đông, ngàn năm công và tội (Chương
26)
Chương 26: Nhân dân run rẩy trong cuộc khủng
bố đỏ
|
Ở Trung
Quốc, từ khi có trường học kiểu mới liền có phong trào học sinh. Từ thời đại
Bắc Dương đến Tưởng Giới Thạch, phong trào học sinh xuất hiện trên vũ đài
lịch sử với tư thế yêu nước, tiến bộ, cách mạng, trở thành lực lượng tiên
phong thúc đẩy xã hội tiến bộ. Chưa một nhà thống trị nào có thể lợi dụng học
sinh làm điều xấu. Chỉ có Mao Trạch Đông làm nổi việc này. Mao đã lợi dụng
học sinh làm rối loạn cả xã hội, lật đổ cơ quan đảng và chính quyền các cấp,
mượn bàn tay học sinh để giày vò các bạn chiến đấu hôm qua, đối thủ chính trị
hôm nay.
Từ 18-8 đến 26-11-1966, Mao 8 lần
tiếp tổng cộng 13 triệu Hồng vệ binh từ các nơi trong cả nước đến Bắc Kinh
“xâu chuỗi”, sự cuồng nhiệt sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông sôi lên sùng sục,
Mao là “mắt bão” làm cho cơn bão đỏ tạo phản tràn khắp Trung Hoa. Hồng vệ
binh được tâng bốc lên tận trời xanh, khiến họ nảy sinh ảo tưởng vô cùng tận.
Vào lúc con em dân thường bất bình vì các vị trí công tác tốt đều lọt vào tay
con em cán bộ, Mao kêu gọi đánh đổ “phái cường quyền đi con đường tư bản”, tức
là đánh đổ bố mẹ những học sinh được ưu đãi kìa, các học sinh xuất thân dân
thường liền đứng lên tạo phản. Để thoát khỏi thế bị động, học sinh con em cán
bộ cũng tham gia tạo phản với tư thế còn “tả” hơn, họ không lôi bố mẹ mình,
mà lôi cấp trên, đồng cấp hoặc cấp dưới của bố mẹ ra đấu. Bất kể là con em
cán bộ hay dân thường, tất cả đều phát điên. Mao ủng hộ và ra lệnh bảo vệ
những hoạt động tạo phản này. Quân đội và công an đều được lệnh cấm nổ súng
vào Hồng vệ binh, kể cả bắn doạ, bị chúng đánh cũng không được đánh trả. Hồng
vệ binh kéo nhau đi lục soát, đập phá, bắt bớ phê đấu cán bộ lâu năm, các
giáo sư và văn nghệ sĩ nổi tiếng. Họ không có sức đánh trả, nên chúng chẳng
gặp nguy hiểm gì, mà lại được nhiều không kể xiết. Đó là cơ sở tư tưởng sâu
xa của phong trào Hồng vệ binh.
Khởi đầu bằng việc đập phá tượng
Thích ca mâu ni trên Phật Hương Các ở Di Hoà Viên, Hồng vệ binh đã phá hoại
4.922 trong số 6.843 di tích cổ ở Bắc Kinh. Theo thống kê chưa đầy đủ, cả
nước có 10 triệu nhà bị lục soát, trong đó Bắc Kinh 11,4 vạn, Thượng Hải 10
vạn. Nhà riêng nguyên Bộ trưởng Giao thông Chương Bá Quân bị Hồng vệ binh
chiếm làm trụ sở, hàng vạn cuốn sách ông lưu trữ bị chúng đốt suốt ngày đêm
để sưởi ấm. Hơn 200 sinh viên Đại học Sư phạm Bắc Kinh kéo về Sơn Đông “san
bằng” mộ Khổng Từ. Lăng mộ của nhiều nhân vật lịch sử hoặc danh nhân như lăng
Viêm đế, mộ Hạng Vũ, Gia Cát Lượng. Thành Cát Tư Hãn, Chu Nguyên Chương, Ngô
Thừa Ân, Từ Bi Hồng… bị đập phá.
Mao còn tạo ra cuộc khủng bố đỏ,
cho Hồng vệ binh nông dân thả sức giết hại “kẻ xấu” (địa chủ, phú nông, phản
cách mạng, phái hữu, nhà tư bản, xã hội đen) để áp chế sự phản kháng của nhân
dân. Chỉ riêng hạ tuần tháng 8-1966, nội thành Bắc Kinh đã có hàng ngàn người
bị đập chết tươi.
Nhiều người khi ấy đã được chứng
kiến những cuộc tắm máu, những kiểu giết người cực kỳ man rợ như thời trung
cổ. Ôn lại chuyện trên, cựu Hồng vệ binh Trần Hướng Dương sau này viết:
“Vì sao những đứa trẻ mười mấy tuổi
đầu lại dã man giết người không chớp mắt như vậy? Vì từ nhỏ đã được giáo dục
hận thù. Thù địa chủ, thù nhà tư bản, thù Quốc Dân Đảng: Trả thù bằng thủ
đoạn tàn nhẫn là thiên kinh địa nghĩa, vấn đề duy nhất là không biết chĩa vào
đâu. Kè thù bên cạnh đã bị các bậc tiền bối quét sạch rồi, còn lại Tưởng Giới
Thạch và đế quốc lại ở quá xa, không với tới được. Đại cách mạng văn hoá vừa
nổ ra, mới đột nhiên biết quanh mình còn ẩn náu nhiều kẻ thù, chúng tôi vui
mừng đến phát cuồng, bao nhiêu sức lực dồn nén dều bung ra. Sự cuồng loạn ấy
chẳng những hiện nay không mấy ai tin, mà ngay bản thân chúng tôi nhớ lại
cũng không dám tin nữa. Những việc làm xấu xa của Hồng vệ binh thật đáng
nguyền rủa, nhưng chúng tôi cũng có đủ tư cách lớn tiếng hỏi lại: ai đã giáo
dục chúng tôi thành những thằng điên?
Băc Kình "nêu gương",
những vụ tàn sát lan ra cả nước. Huyện Đạo ở Hồ Nam là một trong những điển
hình. Khắp nơi là những bố cáo giết người của “toà án tối cao bần nông và
trung nông lớp dưới", những khẩu hiệu kêu gọi giết sạch 4 loại người,
(địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phái hữu).
Trong hai tháng 7 và 8 năm 1967,
Quan Hữu Chí, Trưởng ban vũ trang khu Thanh Đường đã chỉ uy dân quân dùng
cuốc xẻng, súng bắn chim, gậy gộc giết hại 207 người, kể cả trẻ em. Do công
lao trên, y được bầu là “phần tử tích cực học tập và vận dụng tư tường
Mao" cấp tỉnh năm 1967. Viên Phủ Lễ, Khu trưởng Lâm Phô tổ chức 120 dân
quân nòng cốt trong ba ngày giết 569 người.
Trần Đăng Nghĩa, Chủ tịch Hội Bần
nông Đại đội sản xuất Hạ Tưởng là thủ phạm chính trong một vụ giết người,
cưỡng dâm tập thể. Thấy vợ mới cưới của con em địa chủ Trần Cao Tiêu xinh
đẹp, y sinh lòng ghen ghét và sớm có ý đồ bất lương, thì nay thời cơ đến. Tối
26-8-1967. Nghĩa cho gọi Tiêu đến trụ sở đại đội và trói nghiến lại. Y cầm
giáo đâm một nhát vào dùi anh Tiêu, rồi khoát tay ra hiệu. 7,8 dân quân xông
vào dùng gậy đập anh Tiêu chết tươi. Để chứng tỏ mình “kiên quyết cách mạng”,
y dùng mã tấu cắt đầu anh Tiêu, cùng hai con em địa chủ, phú nông khác cũng
vừa bị đánh chết. Chị Tiêu (xuất thân bần nông) sợ quá trốn về nhà mẹ đẻ ở
làng khác, Nghĩa cho dân quân bắt chị trở lại, y tuyên bố các nơi khác vợ địa
chủ đều phải “phục vụ tập thể bần nông”.
Sau khi cơm no, rượu say, Chủ tịch
Hội Bần nông và dân quân, tất cả 12 tên, luân phiên cường hiếp chị Tiêu khi
ấy đang mang thai 3 tháng. Xong xuôi. Nghĩa không quên thực hiện “chính sách
của ĐCSTQ”: cho dân quân khiêng nạn nhân đã ngất xỉu đến nhà bần nông Trần
Nguyệt Cao, buộc chị làm vợ người nông dân già độc thân này.
Cô giáo Chu Quần ở Đại đội sản xuất
Hoành Lĩnh xuất thân bần nông, kết hôn với Tưởng Hán Chính xuất thân địa chủ,
họ đã có với nhau ba mặt con. Tưởng Hán Chính bị bắt ngay hôm đầu. Đêm
26-8-1967, Bí thư chi bộ Đường Hưng Hạo cùng Tiểu đoàn trưởng dân quân Tưởng
Văn Minh xông vào nhà bắt chị Chu đưa ra sân kho. Tại đây chị thấy dân quân
mang súng, mã tấu đang quây tròn quanh 14 người đều là con cháu địa chủ, phú
nông, họ đều bị trói giật cánh khuỷu bằng dây thép. Đường hạ lệnh dẫn họ lên
núi Mộc Phong, nơi có nhiều hang sâu hàng chục mét. Dọc đường, có người nhắc
Bí thư chi bộ vợ chồng Tưởng Hán Chính-Chu Quần còn ba trẻ nhổ, y cho người
quay lại bắt cả ba đứa mang theo. Tới nơi, y bắt mọi người đứng im không được
nhúc nhích, rồi tuyên bố: “Chúng tao là Toà án tối cao của bần nông, hôm nay
tuyên án xử tử hình tụi bay!” Bí thư chi bộ bắt đầu đọc tên, lần lượt giết
từng người một.
Lối hành hình của chúng mang “đặc
sắc bản địa”: bắt nạn nhân quỳ bên miệng hang, dùng xà beng quật vào sau não
cho gục xuống, rồi đạp xuống hang… Người thứ 3 là Tưởng Hán Chính, anh sợ hãi
không lê nổi đôi chân, bị dân quân lôi đến cửa hang. Mấy đứa trẻ sợ quá, vừa
khóc, vừa la hét. Người thứ 4 là thầy thuốc Đông y Tưởng Văn Phàm, ông ung
dung xin ngụm nước để đi vào cõi chết. Dân quân quát: “Làm gì có nước cho mày
uống?”. Ông nói: “Trước khi chết tôi xin ngụm nước có gì quá đáng đâu, ngày
xưa khi chặt đầu còn cho 3 chiếc bánh bao nóng!” Vừa nói xong đã bị đạp xuống
hang sâu.
Người thứ 8 là Chu Quần. Ba đứa trẻ
nhìn mẹ bị hại, khóc lóc thảm thiết. Không biết ngất đi trong bao lâu, Chu
Quần bỗng thấy tiếng gọi mẹ văng vẳng bên tai. Tỉnh lại, chị thấy đứa con gái
8 tuổi nằm bên, thì ra mấy cháu cũng bị ném xuống hang theo mẹ. Nhờ đống xác
người bị giết trước, hai mẹ con chị sống sót. Chị bảo con cởi trói cho mình.
Hôm sau, những kẻ giết người phát hiện dưới hang còn người sống sót, liền ném
đá xuống. Hai mẹ con từ tầng trên rơi xuống tầng dưới nơi có những góc chết.
Chị phát hiện chồng và hai đứa con trai nằm ở đó. Cả nhà may mắn thoát chết,
một cuộc đoàn tụ hiếm hoi và thảm thương trên đống xác người dưới hang sâu
tối tăm, lạnh lẽo. Anh Tưởng đã hoảng loạn, sợi dây thép trói chặt quá không
làm sao cởi ra nổi, anh đi đi lại lại trên đống xác người, miệng lảm nhảm như
mê sảng. Chẳng biết mấy ngày đêm qua đi, cả ba đứa trẻ lịm dần tất thở. Anh
Tưởng khát, chị Chu lấy áo thấm vào vũng nước trộn máu, vắt ra cho chồng
uống, Song anh không nuốt nổi, gục đầu xuống lìa đời. Sau nhờ hai học sinh
đến cứu, chị thoát chết, và vụ giết người rùng rợn này mới có ngày được phơi
trần.
Theo tư liệu điều tra của tỉnh Hồ
Nam, trong 66 ngày từ 13-8 đến 17-10-1967, huyện Đạo có 4.519 người thiệt
mạng, gồm 4.193 người bị giết, 326 người bị buộc phải tự sát.
Trong cơ cấu chính trị đương thời,
số “tiện dân” nghe nói chiếm 5% này hoàn toàn không phải có thể có hoặc
không, mà nhất thiết phải có. Đó là chiến lược quan trọng để ổn định 95% kia.
Ý nghĩa của hòn đá đệm chân này là: có thể làm cho càng nhiều người về tinh
thần say sưa với vị trí “người thống trị” mà quên mất cảm giác bị trị, cảm
thấy mình may mắn thuộc 95% và lo sợ bị rơi vào 5% kia, từ đó được cân bằng
tâm lý trong sợ hãi. Nó khiến đông đảo công chúng dịu đi nỗi đau thiếu thốn
vật chất và sự nghẹt thở về tinh thần. Đó là lý do vì sao sau cải cách ruộng
đất, Mao Trạch Đông vẫn nhấn mạnh “lấy đấu tranh giai cấp làm then chốt”,
kích động sự đối lập giai cấp ở nông thôn.
|
Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014
(Trung Quốc ) - Mao Trạch Đông, ngàn năm công và tội (Chương 26)
(TNBĐ) - Ở Trung Quốc, từ khi có trường học kiểu mới liền có phong trào học sinh. Từ thời đại Bắc Dương đến Tưởng Giới Thạch, phong trào học sinh xuất hiện trên vũ đài lịch sử với tư thế yêu nước, tiến bộ, cách mạng, trở thành lực lượng tiên phong thúc đẩy xã hội tiến bộ. Chưa một nhà thống trị nào có thể lợi dụng học sinh làm điều xấu. Chỉ có Mao Trạch Đông làm nổi việc này. Mao đã lợi dụng học sinh làm rối loạn cả xã hội, lật đổ cơ quan đảng và chính quyền các cấp, mượn bàn tay học sinh để giày vò các bạn chiến đấu hôm qua, đối thủ chính trị hôm nay.
TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Thứ Ba, 15 tháng 7, 2014
(TNBĐ)-3 thủ đoạn chính trong ý đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
(TNBĐ) - Để thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc đã và đang dùng những mưu kế gì? Có thể nói nhà cầm quyền Bắc Kinh đã và đang dùng tất cả 36 mưu kế mà Tôn Tử đã truyền lại cho họ và còn hơn thế nữa. Có thể khái quát theo logic gồm 3 thủ đoạn chính của họ và đề xuất cách phòng chống.
Thứ nhất, thủ đoạn từ không mà làm thành có
Trung Quốc đã và sẽ không bao giờ có thể đưa ra các bằng chứng lịch sử cũng như pháp lý về chủ quyền của họ tại Biển Đông. Theo Hiến chương Liên hợp quốc thì việc dùng vũ lực chiếm đoạt một vùng lãnh thổ không đem lại chủ quyền cho bên chiếm đoạt.
Chính vì không có lý, nên Trung Quốc đã dùng kế "biến không thành có”. Họ nhận bừa rằng mình có chủ quyền với Biển Đông từ 2000 năm trước. Về mặt pháp lý quốc tế, Trung Quốc nói rằng UNCLOS 1982 không áp dụng được với Biển Đông vì vùng biển này thuộc chủ quyền của Trung Quốc từ trước khi UNCLOS 1982 ra đời (trên cơ sở thống nhất với sự ngụy tạo, nhận bừa chủ quyền với biển Đông từ 2000 năm trước). Ở đây, nhà cầm quyền Trung Quốc sử dụng các mưu kế như: "Vô trung sinh hữu” (từ không mà làm thành có), "Phản khách vi chủ” (từ khách thành chủ), "Kim thiền thoát xác” (ve sầu lột xác)…
Giải pháp ở đây là chúng ta phải đưa ra công luận quốc tế các bằng chứng chủ quyền của Việt Nam đối với Biển Đông; đồng thời vạch trần việc "nhận bừa” của Trung Quốc, như các loại bản đồ mang tính bành trướng (bản đồ ngang 9 đoạn, bản đồ dọc 11 đoạn)...
Cũng cần vạch rõ, về việc Trung Quốc nói rằng UNCLOS 1982 không áp dụng được với Biển Đông, có khác nào nói Hiến chương Liên hợp quốc ra đời sau khi nước Mỹ ra đời thì Hiến chương Liên hợp quốc không áp dụng được với lãnh thổ nước Mỹ, hay nước Mỹ không cần tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc?!... Việc Trung Quốc không tham gia vụ Philippines kiện nước này ra Tòa án quốc tế, chứng tỏ Trung Quốc biết rõ điểm yếu của mình, nên đã dùng kế "Tẩu vi thượng sách” (tốt nhất là trốn chạy). Do đó, các nước ASEAN liên quan đến quyền lợi trên Biển Đông cần tấn công thật mạnh vào điểm yếu pháp lý của Trung Quốc, vạch trần cho cộng đồng quốc tế thấy rõ tính phi pháp trong tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.
Thứ hai, thủ đoạn cô lập đối phương và vô hiệu hóa cộng đồng quốc tế
Đuối lý, Trung Quốc thực sự lo lắng bị kiện ra tòa án quốc tế. Từ đó, họ đã nghĩ ra "mẹo” là tiến hành cô lập Việt Nam, Philippines cũng như các nước trong ASEAN; vô hiệu hóa cộng đồng quốc tế theo cách "viễn giao cận công”.
Vì thế, Trung Quốc chỉ muốn đàm phán song phương, đồng thời tiến hành các hành động xâm chiếm trên thực địa với từng nước, trong các thời điểm có "khoảng trống quyền lực” do các nước lớn khác đang "bận rộn” với các vấn đề khác. Ở đây, nhà cầm quyền Trung Quốc dùng các mưu kế như "Sấn hỏa đả kiếp” (nhân cháy nhà mà cướp của), "Thuận thủ khiên dương” (thuận tay dắt dê), "Hỗn thủy mạc ngư” (đục nước bắt cá),…
Trung Quốc bằng nhiều chiêu bài ngoại giao rất muốn cộng đồng quốc tế im lặng và khoanh tay đứng nhìn; làm cho cộng đồng quốc tế mất cảnh giác về các ý đồ và hành động nham hiểm của Trung Quốc, ngộ nhận về sự "trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc. Ở đây, nhà cầm quyền Trung Quốc sử dụng các mưu kế như: "Man thiên quá hải” (giấu trời qua biển), "Tiếu lý tàng đao” (cười nụ giấu dao), "Viễn giao cận công” (xa thì giao thiệp, gần thì dùng vũ lực), "Phao chuyên dẫn ngọc” (ném gạch đi đưa ngọc tới)…
Chính vì thế, các nước ASEAN cần đoàn kết trong một mục đích chung; cần để các quốc gia gần gũi khác như như Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga... thấy được rằng nếu họ khoanh tay đứng nhìn Trung Quốc "cận công” Việt Nam và Philippines xong sẽ đến lượt Trung Quốc "cận công” Malaysia, Bruney, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ… Vì với tư tưởng bành trướng "bình thiên hạ” thì Trung Quốc sẽ "cận công” không ngừng, cho đến khi nào thiên hạ nằm dưới sự kiểm soát của "thiên triều” mới thôi. Từ đó, phải làm cho cộng đồng quốc tế nhận rõ âm mưu của Trung Quốc để cùng nhau đoàn kết, chống lại mưu đồ bành trướng bá quyền Trung Quốc.
(NLLS)- Điều ít biết về mặt trận biên giới Vị Xuyên 1984-1989
(TNBĐ) -Trong 5 năm chiến đấu, các lực lượng vũ trang Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn quân địch, phá hủy 200 khẩu pháo cối, 170 xe vận tải và nhiều kho tàng, trận địa… bắt sống 325 tù binh.
TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
![]() |
Chiến sĩ Sư đoàn 325 trên chốt Vị Xuyên năm 1988. |
Rạng sáng 12/7/1984, trên cả ba hướng, các đơn vị đồng loạt nổ súng tiến công nhưng trận đánh không thành công, sau đó, BTL Quân khu 2 dùng Su 313 và 356 mở chiến dịch giành lại điểm cao 685, 300-400.
Ngày 26/3/1984, trong khi Quân tình nguyện Việt Nam cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia bắt đầu đợt hoạt động lớn truy quét tàn quân Khmer Đỏ thì ở khu vực biên giới Việt-Trung, Trung Quốc cũng ráo riết chuẩn bị cho chiến dịch tiến công lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam. Trên tuyến biên giới thuộc tỉnh Hà Tuyên (nay là Hà Giang), Trung Quốc tập trung 4 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn pháo binh của Đại quân khu Côn Minh trên thê đội một, áp sát hướng Vị Xuyên-Yên Minh.
Từ 2/4 đến 27/4/1984, Trung Quốc tiến hành một đợt bắn phá lớn trên toàn tuyến 6 tỉnh biên giới với trên 28.000 viên đạn pháo. Riêng Hà Giang phải chịu hơn 11.000 viên đạn pháo, ngay cả thị xã Hà Giang nằm sâu trong nội địa 18km cũng bị bắn phá.
5 giờ sáng 28/4/1984, trên hướng Vị Xuyên quân Trung Quốc được 12.000 viên đạn pháo chi viện tấn công vào các trận địa phòng ngự của ta ở phía tây sông Lô. Do tương quan lực lượng chênh lệch, đến hết ngày 30/4/1984, Trung Quốc chiếm được các điểm tựa 1509, 772, 685, bình độ 300-400, 226, 233. Trung đoàn 122 Sư đoàn 313 của ta bị tổn thất, phải lùi xuống các vị trí thấp hơn để tiếp tục chiến đấu.
Ngày 30/4/1985, trên hướng Yên Minh, quân Trung Quốc đánh chiếm điểm tựa 1250 (Núi Bạc) do Tiểu đoàn 3 huyện Yên Minh bảo vệ.
Ngày 15/5/1984, trên hướng Vị Xuyên quân Trung Quốc tiếp tục mở một đợt tấn công ở phía đông sông Lô, chiếm khu vực Pa Hán, điểm tựa 1030 do Trung đoàn 266 Sư đoàn 313 bảo vệ.
Như vậy, từ 28/4 đến 16/5/1984, Trung Quốc đã lần lượt đánh chiếm và tổ chức chốt giữ phòng ngự, chiếm đóng trái phép nhiều vị trí trên lãnh thổ Việt Nam, bao gồm khu vực 1509, 772, 685, 233, 226 (Trung Quốc gọi là Lão Sơn), 1030 (Trung Quốc gọi là Đông Sơn) thuộc huyện Vị Xuyên và 1250 (Trung Quốc gọi là Giả Âm Sơn) thuộc huyện Yên Minh. Trên hướng Vị Xuyên, đối phương bố trí 1 sư đoàn trên tuyến một, 2 sư đoàn phía sau; hướng Yên Minh 1 trung đoàn phía trước, 2 trung đoàn phía sau.
Trước tình hình trên, ngày 20-5/1984, Bộ tư lệnh Quân khu 2 của ta quyết định nhanh chóng xây dựng trận địa, củng cố lại các đơn vị, kiên quyết chiến đấu ngăn chặn địch đồng thời từng bước tổ chức đánh lấy lại các điểm cao bị chiếm đóng.
Ngày 11/6/1984, quân ta tổ chức đánh địch ở 233 và 685 nhưng chưa giành lại được các vị trí này.
![]() |
Gùi nước lên trận địa |
Tháng 6/1984, Quân khu 2 được giao nhiệm vụ tiến hành tiêu diệt một số vị trí bị chiếm đóng, tiến tới khôi phục các điểm tựa ở Vị Xuyên và Yên Minh. Bộ tư lệnh mặt trận quyết định sử dụng 3 trung đoàn bộ binh trong các đơn vị mới lên tăng cường, được sự chi viện của đặc công và pháo binh tham gia chiến đấu trong chiến dịch mang tên MB84.
Ở phía đông sông Lô, Trung đoàn 876 Sư đoàn 356 đảm nhiệm tiến công điểm tựa 772, Trung đoàn 174 Sư đoàn 316 tiến công bình độ 300-400, ở phía tây Trung đoàn 141 Sư đoàn 312 tiến công điểm tựa 1030.
Rạng sáng 12/7/1984, trên cả ba hướng các đơn vị đồng loạt nổ súng tiến công. Tuy nhiên “do công tác chuẩn bị chưa chu đáo, nắm tình hình và đánh giá đối phương chưa đúng, quyết tâm và cách đánh chưa phù hợp, biểu hiện sự nóng vội trong chỉ đạo, chỉ huy” nên trận chiến đấu không thành công.
Cả ba trung đoàn đều bị tổn thất lớn, hàng trăm cán bộ chiến sĩ anh dũng hy sinh, có cả cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn. Chiều 12/7. Bộ tư lệnh mặt trận phải cho các đơn vị chuyển sang phòng ngự.
Rút kinh nghiệm MB84, Quân khu 2 quyết định dùng Sư đoàn 313 và 356 mở chiến dịch vây lấn nhằm giành lại điểm cao 685 và 300-400 với cách đánh mới “sử dụng bộ binh, kết hợp đặc công, có hoả lực pháo binh chi viện mạnh, từng bước bao vây, chia cắt lấn sát”. Lần này các đơn vị có 4 tháng để chuẩn bị.
Ngày 18/11/1984, pháo binh ta bắt đầu bắn phá hoại vào các điểm tựa bị chiếm đóng ở 685 và 300-400. Sau 5 ngày đêm, Trung đoàn 14 Sư đoàn 313 bắt đầu tổ chức đánh lấn 300-400, Trung đoàn 153 Sư đoàn 356 được tăng cường một tiểu đoàn đặc công tiến hành vây lấn 685.
Sau hai tháng liên tục chiến đấu (từ tháng 11/1984 đến tháng 1/1985), mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, các đơn vị của ta đã chiếm lại một số chốt, hình thành thế phòng ngự xen kẽ, bám sát, ngăn chặn địch ở ở đồi Chuối, đồi Cô Ích, đồi Đài, A4, A21, khu Cót Ép, khu C và một phần khu E của điểm cao 685, có những nơi chỉ cách địch 15-20m, cá biệt có nơi 6-8m (chốt Bốn hầm).
Ở đây cuộc chiến đấu giành giật từng thước đất, từng mỏm đá đã diễn ra rất quyết liệt. Các chốt ở Bốn hầm, đồi Cô Ích hay điểm tựa 685 hai bên liên tục thay nhau phản kích, giành đi giật lại tới 30-40 lần.
Từ ngày 27/5 đến 30-5/1985, sau khi thay quân, Trung Quốc mở một đợt tiến công lớn vào các điểm tựa của ta ở đồi Đài, đồi Cô Ích, bình độ 1100 ở phía tây sông Lô nhưng bị ta đẩy lui. Ngay sau đó, ngày 31/5/1985 quân ta tổ chức đánh chiếm và chốt giữ lại điểm tựa A6B, sau đó đánh bại 21 đợt phản kích của địch trong 13 ngày, giữ vững vị trí này cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Từ ngày 23 đến 25/9/1985, Trung Quốc mở một đợt tấn công vào các điểm tựa của ta từ đồi Tròn, lũng 840, Pa Hán (đông sông Lô) đến đồi Cô Ích, bình độ 1100 (tây sông Lô). Trừ Pa Hán bị chiếm và ta phản kích lấy lại sau 1 ngày, các trận địa khác đều được giữ vững.
Trong tháng 10 và tháng 11/1986, sau khi thay quân, phía Trung Quốc mở thêm nhiều đợt tiến công lấn chiếm nhằm đẩy quân ta khỏi khu vực bờ bắc suối Thanh Thủy nhưng đều thất bại.
Từ ngày 5 đến 7/1/1987, Trung Quốc sử dụng lực lượng cấp sư đoàn được pháo binh chi viện mở chiến dịch nhằm vào 13 điểm tựa của ta ở cả đông và tây sông Lô mà mục tiêu chủ yếu là đồi Đài và đồi Cô Ích. Mặc dù đối phương bắn tới trên 100.000 quả đạn pháo trong 3 ngày để chi viện bộ binh liên tục tiến công (có ngày tới 7 lần) nhưng đều bị bộ binh và pháo binh ta ngăn chặn ngay trước trận địa.
Từ sau thất bại này, phía Trung Quốc giảm dần các hoạt động tấn công lấn chiếm. Từ cuối tháng 12/1988, Trung Quốc bắt đầu ngừng bắn phá và từ tháng 3 đến tháng 9/1989 lần lượt rút quân khỏi các vị trí chiếm đóng còn lại trên lãnh thổ Việt Nam.
Theo tổng kết, trong 5 năm chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên mặt trận Vị Xuyên-Yên Minh, các lực lượng vũ trang Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn quân địch, phá hủy 200 khẩu pháo cối, 170 xe vận tải và nhiều kho tàng, trận địa… bắt sống 325 tù binh (bắt 6 tên trong chiến đấu và 319 tên thám báo, trinh sát đột nhập), thu nhiều vũ khí, trang bị…
Trong thời gian 1984-1989, phía Việt Nam đã
nhiều lần thay phiên các đơn vị lên chiến đấu ở mặt trận Vị
Xuyên-Yên Minh:
- Quân khu 1 có Trung đoàn 2 Sư đoàn 3 Quân
đoàn 14 (mang phiên hiệu E981/F356) và Trung đoàn 567 Sư đoàn 322 Quân
đoàn 26 (mang phiên hiệu E982/F313).
- Quân khu 2 có các sư đoàn bộ binh 313, 314, 316, 356, các trung đoàn 247 (Hà Tuyên), 754 (Sơn La) cùng các đơn vị pháo binh, xe tăng, đặc công, công binh, thông tin, vận tải của quân khu. - Đặc khu Quảng Ninh có Trung đoàn 568 Sư đoàn 328 (mang phiên hiệu E983). - Các đơn vị chủ lực Bộ có Sư đoàn 312 Quân đoàn 1, Sư đoàn 325 Quân đoàn 2, Sư đoàn 31 Quân đoàn 3. Ngoài ra nhiều đơn vị nhỏ cấp đại đội, tiểu đoàn cũng được điều động lên tham gia trực tiếp hoặc hỗ trợ chiến đấu trong từng giai đoạn ngắn. Ở phía tây sông Lô từ đầu năm 1984 đến tháng 12/1985: Sư đoàn 313 và 356; Tháng 5/1985: Sư đoàn 313; Tháng 12/1985: Sư đoàn 31; Tháng 6/1986: Sư đoàn 313; Tháng 2/1987: Sư đoàn 356; Tháng 8/1987: Sư đoàn 312; Tháng 1/1988: Sư đoàn 325; Tháng 9/1988: Sư đoàn 316; Tháng 5/1989: Sư đoàn 313. Ở phía đông sông Lô từ đầu năm 1984: Trung đoàn 266 Sư đoàn 313; Tháng 7/1984: Trung đoàn 141 Sư đoàn 312; Tháng 4/1985: Trung đoàn 983; Tháng 11/1985: Trung đoàn 818 Sư đoàn 314; Tháng 2/1987: Trung đoàn 881 Sư đoàn 314; Tháng 9/1987: Trung đoàn 818 Sư đoàn 314 và Trung đoàn 754 Sơn La; Tháng 6/1988: Trung đoàn 726 Sư đoàn 314; Tháng 10/1988: Trung đoàn 247 Hà Tuyên. Về phía Trung Quốc, theo các tài liệu được công bố trên mạng, đã có 17 sư đoàn bộ binh và 5 sư đoàn, lữ đoàn pháo binh thuộc các Đại quân khu Côn Minh, Nam Kinh, Phúc Châu, Tế Nam, Lan Châu, Nam Kinh và Thành Đô lần lượt được huy động vào chiến dịch lấn chiếm biên giới từ 1984/1989. |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Loading...