TIN NÓNG HOÀNG SA-TRƯỜNG SA, BIỂN ĐÔNG (VIỆT NAM)

Thứ Hai, 14 tháng 7, 2014

60 năm Hiệp định Genève (1954 - 2014) Kỳ 1: Trung Quốc ngỏ lời 'đi đêm' với Pháp

(TNBĐ) - Nhân kỷ niệm 60 năm ký kết Hiệp định Genève về Đông Dương (21.7.1954 - 21.7.2014), Báo Thanh Niên xin giới thiệu với bạn đọc những hồi ức của luật gia Hoàng Nguyên (1924 - 2007), người trực tiếp tham gia Hội nghị Genève với tư cách thư ký phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tòa soạn chân thành cám ơn gia đình ông Hoàng Nguyên đã giúp đỡ và cung cấp tư liệu.

60 năm Hiệp định Genève (1954 - 2014)
 Kỳ 1: Trung Quốc ngỏ lời 'đi đêm' với Pháp

Nhân kỷ niệm 60 năm ký kết Hiệp định Genève về Đông Dương (21.7.1954 - 21.7.2014), Báo Thanh Niên xin giới thiệu với bạn đọc những hồi ức của luật gia Hoàng Nguyên (1924 - 2007), người trực tiếp tham gia Hội nghị Genève với tư cách thư ký phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tòa soạn chân thành cám ơn gia đình ông Hoàng Nguyên đã giúp đỡ và cung cấp tư liệu.


Hội nghị Genève về Đông Dương khai mạc ngày 8.5.1954, bế mạc ngày 21.7.1954 được chia làm 3 thời kỳ đàm phán. Thời kỳ thứ nhất, từ ngày 8.5.1954 tới ngày 19.6.1954. Thời kỳ thứ hai, từ ngày 20.6.1954 tới ngày 10.7.1954: coi như hội nghị tạm nghỉ. Các trưởng đoàn về nước báo cáo, chỉ có các cuộc họp hẹp và các đoàn quân sự họp với nhau. Thời kỳ thứ ba, từ ngày 11.7.1954 đến khi kết thúc hội nghị.
Đoàn Liên Xô do Viacheslav Molotov, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, làm trưởng đoàn. Đoàn Trung Quốc do Chu Ân Lai, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, làm trưởng đoàn. Đoàn Mỹ do Ngoại trưởng Dulles làm trưởng đoàn nhưng chỉ dự phần Triều Tiên, còn phần Đông Dương giao lại cho Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Bedell Smith tham dự. Đoàn Anh do Ngoại trưởng Anthony Eden lãnh đạo. Đoàn Pháp, giai đoạn đầu là Ngoại trưởng Georges Bidault; giai đoạn sau là Pierre Mendès France - Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng lãnh đạo. Đoàn quốc gia Việt Nam do Ngoại trưởng Nguyễn Quốc Định, sau đó Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ sang thay. Đoàn Hoàng gia Lào do Phủi Sananikone làm Ngoại trưởng lãnh đạo. Đoàn Hoàng gia Campuchia do Ngoại trưởng Nhiêk Tiêu Long rồi Ngoại trưởng Tep Phan lãnh đạo. Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn.
Ngoài Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn có 4 cố vấn, bao gồm: Hoàng Văn Hoan - Đại sứ tại Bắc Kinh, cố vấn và là người phát ngôn của đoàn, chủ trì các cuộc họp báo; Tạ Quang Bửu - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, cố vấn về quân sự kiêm Trưởng bộ phận quân sự; Phan Anh - Bộ trưởng Bộ Công thương, cố vấn về luật pháp; Trần Công Tường - Thứ trưởng Bộ Tư pháp, cố vấn giúp đoàn dịch và duyệt các văn bản bằng tiếng Pháp.
Trong thời kỳ thứ nhất hội nghị, các bên trình bày lập trường của mình về cách giải quyết vấn đề Đông Dương, tranh luận về các vấn đề lớn có liên quan tới mục tiêu của hội nghị và còn có quan điểm khác nhau, như bàn chung hay bàn riêng các vấn đề quân sự và vấn đề chính trị, bàn chung hay bàn riêng vấn đề Việt Nam và các vấn đề Lào và Campuchia.
Tại phiên họp đầu tiên, đại biểu Pháp trình bày lập trường của Pháp: tập kết quân đội hai bên vào vùng quy định; giải giáp lực lượng dân quân du kích; trao trả tù quân sự và dân sự; kiểm soát quốc tế; đình chỉ chiến sự. Về Lào và Campuchia, họ nêu: rút tất cả các lực lượng Việt Nam; giải giáp các lực lượng dân quân du kích; trao trả tù quân sự và dân sự; kiểm soát quốc tế. Bidault tuyên bố thêm: “Nếu sự có mặt trong hội nghị này của một bên đã tổ chức các lực lượng vũ trang để chống lại quốc gia Việt Nam đã được chấp nhận như một sự cần thiết để đi tới một sự thỏa thuận ngừng chiến sự, thì sự có mặt đó không thể được giải thích là bao hàm một sự công nhận có tính chất nào đó”.
Phạm Văn Đồng đứng ngay lên, yêu cầu để đại diện hai chính phủ kháng chiến Pathét Lào và Khơ me Issarak được tham dự hội nghị, vì họ đang kiểm soát những vùng rộng lớn trong mỗi nước và thiết lập các chính quyền dân chủ. Đại biểu Mỹ Bedell Smith và Bidault kiên quyết bác bỏ. Chủ tịch hội nghị Eden (Anh) tuyên bố nghỉ họp và gác vấn đề lại.
Ngày 16.5.1954, một viên chức Trung Quốc của Văn phòng Lao công quốc tế là Hu Tsiao Fong, đã từng làm việc cho chính phủ Đài Loan, nhưng có quan hệ mật thiết với Bắc Kinh, đến liên hệ trực tiếp với người Pháp, để cho biết ý của đoàn đại biểu Trung Quốc rồi đây muốn có quan hệ càng sớm càng tốt với đoàn đại biểu Pháp. Nếu đoàn Pháp đồng ý cử một viên chức ngoại giao làm việc thì đoàn Trung Quốc cũng chỉ định một viên chức có cấp bậc tương đương để đáp lại. Nhưng các cuộc nói chuyện giữa hai bên cần giữ bí mật triệt để. Theo Hu Tsiao Fong, đoàn đại biểu Trung Quốc muốn các cuộc nói chuyện này không chỉ giới hạn vào vấn đề Đông Dương, mà cả toàn bộ vấn đề quan hệ Đông - Tây, ví dụ, việc Pháp có thể góp phần làm cho chính phủ Mỹ thay đổi thái độ về việc Trung Quốc gia nhập Liên Hiệp Quốc mà Bắc Kinh rất quan tâm.
Các cuộc gặp gỡ Trung - Pháp sẽ bắt đầu từ ngày 16.5, giữa một bên là Vương Bính Nam, Tổng thư ký của đoàn đại biểu Trung Quốc, Tổng thư ký Bộ Ngoại giao, và một bên là Jean Paul Boncour, trước đây là đại diện Pháp tại Trung Quốc và Thái Lan, nay là thành viên đoàn Pháp (kiêm chức Tổng thư ký Hội nghị Genève) và Guillermaz, trước là Tùy viên quân sự Pháp tại Nam Kinh và Bangkok, nói thạo tiếng Trung Quốc và rất quen Vương Bính Nam. Ngoài các vấn đề thuần túy về Đông Dương, Vương Bính Nam còn đề cập đến các vấn đề tiếp xúc của nước CHND Trung Hoa với các nước mà Trung Quốc chưa có quan hệ, như Anh - Pháp, có lẽ sẽ là những cuộc tiếp xúc có tầm quan trọng lớn đối với Trung Quốc (đặc biệt là về quan hệ mậu dịch).
Các cuộc đàm phán ngày một nhiều giữa Trung Quốc và Pháp, tổng cộng có tới 5 cuộc từ ngày 30.5 tới ngày 7.6, kể cả giữa Chu Ân Lai và Bidault, hoặc giữa Vương Bính Nam và Chauvel, Đại sứ Pháp ở Thụy Sĩ. Trong các cuộc hội đàm này, điều đặc biệt là Chu Ân Lai tránh đi vào những vấn đề thuộc về quyền lợi của Trung Quốc như nhờ Paris vận động cho Trung Quốc vào Liên Hiệp Quốc hay cả việc lập quan hệ ngoại giao giữa Bắc Kinh và Paris. Chu Ân Lai chỉ đi vào việc giải quyết vấn đề Đông Dương, bao gồm cả việc loại trừ sự đe dọa của Mỹ tại ba nước Đông Dương.
Sau 4 phiên họp công khai, Chủ tịch hội nghị A.Eden đề nghị họp hẹp. Phe ta tán thành, và Molotov đề nghị vấn đề quân sự và chính trị và vấn đề ba nước sẽ bàn song song. Anh, Pháp đồng ý, Mỹ đành phải chịu. Trong cuộc họp hẹp ngày 19.5, Pháp than phiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ thả các thương binh quốc tịch Pháp. Sau một đợt tranh luận giữa Molotov, Smith, Bidault, Phạm Văn Đồng và Nguyễn Quốc Định, Chu Ân Lai lại nói: “Mọi sự cản trở bất kể từ nguồn gốc nào đều đáng lên án”. Pháp hài lòng vì thấy Trung Quốc có thái độ xây dựng. Ngày 19.5, Hà Văn Lâu (thành viên phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) đồng ý giải quyết vấn đề thương binh mà không phân biệt quốc tịch.
Giữa lúc đó, ngày 12.6.1954, quốc hội Pháp đánh đổ chính phủ Laniel - Bidault. Một tuần sau, ngày 19.6, chính phủ Mendès France lên cầm quyền ở Pháp. 
Hoàng Nguyên
Kiều Mai Sơn 
(lược trích)- Còn nữa

 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2014

(Trung Quốc)- Mao Trạch Đông, Ngàn năm công và tội (chương 23)

(TNBĐ) - Ngày 22-4, Lâm Bưu một mình triệu kiến Mao Trạch Đông, tố cáo Lưu Thiếu Kỳ đang nắm quân quyền, đã lôi kéo được La Thụy Khanh. Hai người bàn bạc quyết định cử thêm Dương Thành Vũ làm Phó Bí thư trưởng Quân uỷ Trung ương, kiêm Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất, có thể trực tiếp báo cáo thỉnh thị Trung ương, trực tiếp liên hệ với các Đại quân khu, các quân binh chủng. Sự phân quyền này là bước thứ nhất Mao, Lâm không tin cậy La Thụy Khanh.


Chương 23: La Thụy Khanh chơi với hổ, bị hổ vồ
Ngày 3-1-1965, tại Quốc hội Trung Quốc khoá 3, Lưu Thiếu Kỳ lại được bầu làm Chủ tịch nước. Khi ấy tuy đã quyết tâm lật đổ Lưu, nhưng Mao không cản trở Lưu tái cử, bởi ông ta thấy mình đang ở vào thiểu số trong Đảng, chưa lật nổi đối thủ. Mao đang tìm kiếm lực lượng mới, phương thức đấu tranh mới.
Theo hiến pháp, Chủ tịch nước đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Trong danh sách Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng khoá này do Lưu đề nghị có thêm Tổng Tham mưu trưởng La Thụy Khanh. Tuy đây chỉ là chức vụ danh dự, không có thực quyền, nhưng sự đề bạt này có nghĩa là La đã đứng vào hàng ngũ các nguyên soái. Về sau trong một lần phát biểu công khai, Lưu nói La Thụy Khanh sẽ kế tục chức Bộ trưởng Quốc phòng, khiến Mao và Lâm Bưu cảnh giác.
Ngày 22-4, Lâm Bưu một mình triệu kiến Mao Trạch Đông, tố cáo Lưu Thiếu Kỳ đang nắm quân quyền, đã lôi kéo được La Thụy Khanh. Hai người bàn bạc quyết định cử thêm Dương Thành Vũ làm Phó Bí thư trưởng Quân uỷ Trung ương, kiêm Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất, có thể trực tiếp báo cáo thỉnh thị Trung ương, trực tiếp liên hệ với các Đại quân khu, các quân binh chủng. Sự phân quyền này là bước thứ nhất Mao, Lâm không tin cậy La Thụy Khanh.
Tháng 5, La Thụy Khanh chủ trì hội nghị tác chiến tại Bắc Kinh. Những người dự hội nghị hy vọng được Mao tiếp, nhưng Mao đang ở miền Nam. La kiến nghị các uỷ viên Thường vụ Bộ chính trị có mặt tại Bắc Kinh tiếp, Lâm Bưu đồng ý. Buổi tiếp diễn ra vào 19-5, do Lưu Thiếu Kỳ chủ trì, nghe 3 Tổ trưởng báo cáo, đương nhiên các báo cáo đều do La thẩm định. Lâm Bưu lúc đầu nói không thể đến dự vì lý do sức khỏe, nhưng rồi ông ta lại đột nhiên có mặt, và khi buổi tiếp sắp kết thúc, lại đột ngột đứng dậy nói một thôi dài, bác bỏ ý kiến của ba vị tổ trưởng kia. Cuối tháng 5, những người tham gia hội nghị yêu cầu Tổng tham mưu trưởng phát biểu tổng kết. Lâm Bưu nói đề nghị này không thoả đáng, vì “hội nghị tác chiến chỉ có thể lấy ý kiến của Chủ tịch, các uỷ viên Thường vụ Bộ chính trị và văn kiện hội nghị làm kết luận, không cho phép bất cứ ai phát biểu dưới danh nghĩa tổng kết”. La Thụy Khanh hiểu đây là bước thứ hai nghiêm trọng hơn của Lâm Bưu: công khai hạ thấp vai trò Tổng tham mưu trưởng.
Vui mừng được Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Hạ Long và các nhà lãnh đạo khác trong Quân uỷ Trung ương tin cậy, La Thụy Khanh không nhận ra mối nguy hiểm đang bao bọc quanh mình. Diệp Quần vẫn đang thu thập những tài liệu chống La, nhất là từ phía Hải quân.
Tối 26-11-1965, Giang Thanh gặp La Thụy Khanh, yêu cầu giúp Giang tổ chức cuộc toạ đàm về tình hình văn nghệ trong quân đội, cấp cho Giang quân phục, và cho đăng lại bài của Diêu Văn Nguyên phê “Hải Thụy bãi quan”, nhưng ông chỉ đáp ứng yêu cầu thứ 3, khiến Giang rất tức giận, về kể lại với chồng. Qua việc La không cấp quân phục cho Giang Thanh vì bà ta không có quân tịch, Mao càng thấy ông là người có tính nguyên tắc rất mạnh, vốn là phẩm chất ưu tú của người cộng sản. Nhưng trong cuộc đấu tranh với Lưu Thiếu Kỳ, Mao không cần những người quân tử ngay thắng, mà cần những kẻ láu lỉnh lựa gió chèo thuyền. Trong cuộc đấu tranh lớn sắp tới, không thể lôi kéo nổi một người ngay thẳng như thế ủng hộ mình, mà nếu quân đội chia rẽ, Lâm Bưu một phái, La Thụy Khanh một phái, có thể làm hỏng toàn cục bố trí chiến lược của Mao. Thế là Mao quyết định hy sinh người vệ sĩ một dạ trung thành này.
Ngày 30-11, Diệp Quần bí mật đáp máy bay riêng từ Tô Châu tới Hàng Châu xin gặp Mao Trạch Đông, lúc đó đang ở biệt thự Uông Trang. 5 giờ sáng 1-12, Mao cho gọi Diệp vào gặp gấp Mao xem thư Lâm Bưu, nhận các tài liệu do Diệp chuyển, rồi nghe bà ta báo cáo trong 5 giờ liền. Nội dung và tình tiết cụ thể cuộc gặp gỡ này mãi mãi là một bí mật, bởi chỉ có hai người bên nhau suốt 5 giờ đó. Rồi Mao bảo Diệp không nên nấn ná ở lại Hàng Châu. Ông ta cừ Uông Đông Hưng dùng đoàn xe lửa riêng của mình đưa Diệp trở lại Tô Châu, và đón Lâm Bưu đến.
Cuộc hội kiến Mao-Lâm đêm 1-12 mang đậm sắc thái một âm mưu. Mao muốn lật đổ Lưu Thiếu Kỳ và Bành Chân, dặn Lâm Bưu “nắm chắc quyền chỉ huy quân đội, không để rơi vào tay kẻ khác, phải đảm bảo cuộc đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá diễn ra bình thường”. Lâm Bưu thúc giục Mao lật đổ La Thụy Khanh:
- Không giải quyết vấn đề La Thụy Khanh, quân đội có thể sẽ chia rẽ. Tôi không thể đảm bảo người này biết nghe lời.
Mao khen Lâm tiến bộ, hy vọng Lâm “một lần nữa đọc báo cáo như tại Đại hội 7.000 người, nói rõ sự cần thiết phải phát động Đại cách mạng văn hoá”.
Từ 8 đến 15-12-1965, Hội nghị Thường vụ Bộ Chính trị mở rộng họp tại Thượng Hải. Ngoài 7 uỷ viên Thường vụ Bộ chính trị, các uỷ viên Bộ Chính trị và Ban Bí thư, tổng cộng 38 người có mặt. Một số người phụ trách cơ quan hữu quan ở trung ương và tướng lĩnh cao cấp dự thính. Mao bảo Lâm Bưu chủ trì Hội nghị.
Điều bất ngờ là Diệp Quần đăng đàn tố cáo La Thụy Khanh âm mưu cướp quyền lãnh đạo quân đội, ép Lâm Bưu nhường ghế bộ trưởng. Diệp đã bước lên vũ đài chính trị, khởi đầu bằng việc vu cáo, hãm hại La.
Hội nghị ra quyết định tước hết các chức vụ của La Thụy Khanh: Bí thư Trung ương Đảng, Phó thủ tướng, Tổng tham mưu trưởng. Khi Thường vụ Bộ chính trị biểu quyết, Lưu Thiếu Kỳ, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình bỏ phiếu chống. Khi Bộ Chính trị biểu quyết, Bành Chân, Lưu Bá Thừa bỏ phiếu chống, Lưu Thiếu Kỳ, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình, Hạ Long, Lục Định Nhất, Lý Phú Xuân, Đàm Chấn Lâm bỏ phiếu trắng.
Là “bị cáo”, nhưng La Thụy Khanh không được có mặt tại Hội nghị và bào chữa cho mình. Đang đi kiểm tra biên giới Tây Nam thì nhận được thông tri hội nghị họp, La cùng vợ đáp máy bay về đến Thượng Hải liền bị giam lỏng ngay. La nổi giận đùng đùng, lòng đầy căm phẫn, xin gặp Mao không được, xin gặp Lâm Bưu không xong. Ngày 17-12-1965. La về đến Bắc Kinh, đóng cửa suy nghĩ. Từ 4-3-1966, Quân uỷ Trung ương lập Tổ chuyên án thẩm tra, phê đấu La Thụy Khanh. Ngày 18, La tức quá nhảy lầu tự sát, nhưng chỉ bị gãy chân.


 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

(Trung Quốc)- Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc ngày nay (Kỳ 6)

(TNBĐ) - Khi phát hiện buồng ngủ của mình trên toa xe lửa “tuần du” đến Hồ Nam bị đặt máy nghe lén hiện đại, Mao Trạch Đông không khỏi kinh ngạc, gọi ngay những người có trách nhiệm cao nhất về an ninh đang ở quanh mình và cả Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ từ Bắc Kinh bay đến giải trình…


Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc ngày nay

Kỳ 6: Ai đặt máy nghe lén trong buồng ngủ Mao Trạch Đông'?


Khi phát hiện buồng ngủ của mình trên toa xe lửa “tuần du” đến Hồ Nam bị đặt máy nghe lén hiện đại, Mao Trạch Đông không khỏi kinh ngạc, gọi ngay những người có trách nhiệm cao nhất về an ninh đang ở quanh mình và cả Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ từ Bắc Kinh bay đến giải trình…
Tháng 2.1961, chuyến xe lửa tuần du phương nam của Mao Trạch Đông dừng lại tại thủ phủ tỉnh Hồ Nam, một nữ nhân viên xinh đẹp trong tổ phục vụ của Mao Trạch Đông đã bất thần báo cáo với ông: 
Thưa Chủ tịch, có người nào đó đã đặt máy nghe trộm trong buồng ngủ của Chủ tịch!”. Ông hỏi đôi ba lần vì sao biết?. Cô ta trả lời vì người bạn trai cùng tổ của cô tiết lộ: “Anh đã nghe được tiếng nói của em trong buồng ngủ của Mao Chủ tịch”. Mao Trạch Đông gọi ngay Dương Thượng Côn (*) đến, hỏi thẳng mặt: “Ai bảo các ông đặt máy nghe trộm trên xe lửa?”. Tài liệu Tân Tử Lăng cho biết câu đáp của Dương Thượng Côn và chi tiết tiếp đó  (tóm lược) như sau:
- “Thưa Chủ tịch, từ ngày phát động “bước tiến nhảy vọt” đến nay, Chủ tịch thường tiếp một số đồng chí trên xe lửa, triển khai nhiều ý kiến mà thư ký không thể ghi chép đầy đủ hết, bỏ sót nhiều chỉ thị quan trọng của Chủ tịch. Vì thế Ban Bí thư quyết định đặt máy nghe trên xe lửa để ghi lại những gì Chủ tịch nói ra…”.
Giận lắm, nhưng bản lĩnh tự kiềm chế của Mao Trạch Đông rất thượng thừa, nên ông chỉ nói nhỏ nhẹ, vừa phải: “Các ông tốn nhiều công sức tôi không trách. Tôi hỏi thiết bị nghe lén do ai cung cấp?”. Dương Thượng Côn đáp: “Thưa Chủ tịch, thiết bị nghe lén hiện đại nhập từ nước ngoài thông qua con đường hữu quan với danh nghĩa của Văn phòng Trung ương Đảng ta”. Mao tiếp: “Lắp đặt từ bao giờ?”. “Dạ, từ tháng 1 năm 1959 đến nay”. Mao Trạch Đông hỏi:“Đã hơn hai năm rồi đấy, mà tôi chả biết chút nào. Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình có biết không?”. Dương Thượng Côn đáp: “Hai đồng chí ấy tán thành”.
Rời khỏi cuộc tra vấn trên, Dương Thượng Côn lạnh toát mồ hôi, điện thoại ngay cho Lưu Thiếu Kỳ. Lưu Thiếu Kỳ lập tức đáp máy bay đến gặp Mao Trạch Đông để “trình nghị quyết của Ban Bí thư tháng 12.1958 về việc đặt máy ghi âm tại buồng ngủ của Mao trên xe lửa và giải thích việc này chỉ nhằm bám sát, học tập chỉ thị của Mao không có ý gì khác” và đề nghị kiểm tra, tiêu hủy toàn bộ số băng ghi âm cùng các bản chỉnh lý lưu trữ tại phòng bảo mật của văn phòng Trung ươngLưu Thiếu Kỳ nói tuy đây là chủ kiến của Ban Bí thư, nhưng Lưu đã“tán thành cho làm, nên ông xin lỗi Mao Trạch Đông và sẵn sàng chịu kỷ luật”. Mao làm bộ tươi cười: “Các ông rõ là tốt bụng…” song thòng thêm một câu có ý trách Lưu Thiếu Kỳ đã“làm một việc không hay lắm”.
Từ đó, theo nhận định của Tân Tử Lăng: “Mao Trạch Đông không tin cậy Lưu Thiếu Kỳ và Ban Bí thư nữa, nó là bước ngoặt khiến quan hệ Mao Trạch Đông - Lưu Thiếu Kỳ trở nên thù địch”. Tế nhị và “nguy hiểm” nhất là: Lưu Thiếu Kỳ thấy rõ sai lầm của Mao Trạch Đông trong “bước tiến nhảy vọt” - điều mà Mao Trạch Đông rất “kỵ” - tất yếu dẫn đến bi kịch cuối đời Lưu Thiếu Kỳ như sau:
Ngày 6.1.1967 Giang Thanh đạo diễn việc đưa phu nhân Vương Quang Mỹ (vợ Lưu Thiếu Kỳ) đến Đại học Thanh Hoa phê đấu. Đêm 13.1, Lưu Thiếu Kỳ đến gặp Mao Trạch Đông lần cuối xin từ chức Chủ tịch nước để “cùng vợ con về quê làm ruộng”. Nhưng vẫn không xong, vì sau đó Giang Thanh vận động hơn 300.000 người dự đại hội phê phán Vương Quang Mỹ “Từ sáng sớm, ôtô của Hồng vệ binh đã vào Trung Nam  Hải bắt người. Vương Quang Mỹ bị dẫn đến tầng 7 tòa nhà chính của Đại học Thanh Hoa, bị cưỡng bức mặc bộ trang phục hồi đi thăm Indonesia và bị choàng lên cổ một chiếc “dây chuyền” cực lớn xâu bằng những quả bóng bàn (…). Hôm sau, tin ảnh về “ba lần thẩm vấn Vương Quang Mỹ” xuất hiện trên các bản tin của Hồng vệ binh làm chấn động dư luận thế giới”, vì qua đó “sự tôn nghiêm của Lưu Thiếu Kỳ trên cương vị Chủ tịch nhà nước Trung Quốc bị quét sạch trơn”. 
Ngày 5.8.1967, Giang Thanh và đồng đảng triệu tập hơn 1 triệu người tụ về quảng trường Thiên An Môn để hỏi tội Lưu Thiếu Kỳ (và Đặng Tiểu Bình, Đào Chú) rồi đấu tố họ tại chỗ. Riêng Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ bị đánh sưng mặt, tuột cả giày, lảo đảo đi hai chân không rời khỏi quảng trường. Khoảng hơn một tháng sau, ngày 13.9.1967 mới thực sự là ngày đại nạn, ly tan của gia đình Lưu Thiếu Kỳ, phu nhân Vương Quang Mỹ bị bắt, ba người con ở tuổi đi học phải chịu thẩm tra và ông “bị giam ngay trong văn phòng Chủ tịch nước (…) mấy lần đấu đá khiến bị thương nặng nề (…) mỗi bữa ăn khoảng cách đến nhà ăn chỉ chừng 30 mét, mà ông phải lê đôi chân bị thương đi mất 50 phút. Người ta đã nhắc nhở lính canh không được đỡ giúp” - năm ấy ông 69 tuổi... (còn nữa)

 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Loading...