(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2014
(TNBĐ)- Mao Trạch Đông ngàn năm công và tội (Chương 1- Phần 1)
(TNBĐ) -
TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Chương 1
Muốn trở thành lãnh tụ phong trào cộng sản quốc tế
Tháng
7-1949, trong thời gian Lưu Thiếu Kỳ bí mật thăm Liên Xô, Stalin kiến nghị:
Hai nước cần gánh vác nghĩa vụ lớn hơn trong phong trào cách mạng thế giới.
Trung Quốc cần giúp đỡ nhiều hơn cho phong trào cách mạng dân tộc dân chủ ở
các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Sau khi Mác và Ăng-ghen qua đời, trung
tâm cách mạng thế giới đã từ phương Tây chuyển sang phương Đông, nay lại
chuyển sang Trung Quốc và Đông Á. Do đó, Trung Quốc cần gánh vác trách nhiệm
đối với cách mạng các nước Đông Nam Á.
Ý
kiến của Stalin về trung tâm cách mạng chuyển sang Trung Quốc và muốn Trung
Quốc giữ chiếc ghế thứ hai trong phe xã hội chủ nghĩa đã cổ vũ Mao Trạch Đông
rất nhiều. Mao cho rằng ông ta có sứ mệnh lịch sử mở rộng con đường cách mạng
“lấy nông thôn bao vây thành thị” sang các nước Á, Phi, Mỹ Latinh, lấy nông
thôn thế giới bao vây thành thị thế giới, cuối cùng giành lấy châu Âu, tiêu
diệt nước Mỹ lật đổ toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ cộng sản
chủ nghĩa, hoàn thành cách mạng thế giới và trong quá trình này, Mao Trạch
Đông trở thành người thầy vĩ đại và lãnh tụ vĩ đại của nhân dân cách mạng thế
giới. Mao quyết không cam tâm chỉ làm lãnh tụ của Trung Quốc mà cho rằng
thắng lợi của cách mạng Trung Quốc chỉ là bước đầu tiên trên con đường trường
chinh vạn dặm. Các hoạt động nội chính và ngoại giao, văn trì và vũ công,
thành công và thất bại, công lao và tội lỗi của Mao đều trực tiếp hoặc gián
tiếp gắn liền với dã tâm muốn làm lãnh tụ thế giới của ông ta. Trong bối cảnh
lịch sử ấy, Mao ngả hẳn sang Liên Xô, và việc lần đầu tiên của Mao sau khi
thành lập nước CHND Trung Hoa là sang thăm Moskva, mừng thọ Stalin, ký Hiệp
ước đồng minh tương trợ Trung-Xô.
Nhưng
Stalin không hoàn toàn yên tâm về Mao Trạch Đông, lo ngại Mao trở thành “Tito
phương Đông”. Một nước cờ quan trọng của Stalin là kéo Mao vào cuộc chiến
tranh Triều Tiên.
Sau
thế chiến II, bán đảo Triều Tiên bị phân chia làm hai miền Nam Bắc, lấy vĩ
tuyến 38 làm ranh giới, miền Nam do Mỹ cai quản, ngày 15-8-1945 đã thành lập
Chính phủ Đại Hàn Dân quốc do Lý Thừa Vãn làm tổng thống; miền Bắc do Liên Xô
cai quản, ngày 9-9-1948 đã thành lập Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Triều Tiên do Kim Nhật Thành làm thủ tướng. Theo thoả thuận Yalta, quân đội
Xô, Mỹ đã rút khỏi Triều Tiên vào cuối năm 1948 và tháng 6-1949. Lấy cớ hợp
nhất, Kim Nhật Thành đã xoá bỏ Đảng Cộng sản mà ông ta từng gia nhập, thành
lập Đảng Lao động Triều Tiên, xây dựng quân đội do Liên Xô trang bị và huấn
luyện. Chính phủ hai miền đều có ý đồ dùng vũ lực nuốt chửng đối phương,
nhưng Bắc Triều Tiên nổ súng trước.
Từ
30-3 đến 25-4, Kim Nhật Thành mang theo phương án tác chiến sang Liên Xô gặp
Stalin, Stalin chấp nhận, hứa giúp đỡ vũ khí và cố vấn quân sự, nhưng nói rõ
nếu Mỹ can thiệp, Liên Xô không thể ra mặt tham chiến, mà Triều Tiên phải dựa
vào Trung Quốc. Từ 13 đến 15-5-1950 Kim Nhật Thành bí mật sang Bắc Kinh hội
đàm với Mao Trạch Đông, giới thiệu kế hoạch tấn công chi tiết, và yêu cầu
giúp đỡ. Mao nói: Trung Quốc vốn định giải quyết vấn đề Đài Loan rồi mới giúp
Bình Nhưỡng giải phóng miền Nam, nay Stalin quyết định giải quyết vấn đề
Triều Tiên trước. Trung Quốc cũng không có ý kiến gì. Tác chiến phải chuẩn bị
kỹ. Binh quý thần tốc, phải bao vây các thành thị chủ yếu, tập trung binh lực
tiêu diệt địch. Nếu Mỹ can thiệp, Trung Quốc có thể xuất quân.
Vào
thời diềm đó, Bắc Triều Tiên có 135 ngàn quân, gồm 10 sư đoàn bộ binh với đầy
đủ quân số và vũ khí, trang bị, 1 sư đoàn xe tăng với 150 chiếc T-34, nhiều
pháo hạng nặng, 1 sư đoàn không quân với 180 máy bay chiến đấu tính năng cao.
Trong khi đó, Hàn Quốc có 95 ngàn quân, 8 sư đoàn chỉ có 4 sư đoàn gần đầy đủ
quân số, 24 máy bay huấn luyện, không có xe tăng và vũ khí hạng năng, thậm
chí không có cả mìn chống tăng.
Rạng
sáng 25-6-1950, quân đội của Kim Nhật Thành mở cuộc tấn công dữ dội xuống
phía nam, chỉ 3 ngày đã chiếm Seoul, thủ đô Hàn Quốc. Ngày 30-6, tổng thống
Mỹ ra lệnh cho lục quân Mỹ tham chiến ở Triều Tiên. Ngày 1-7, Sư đoàn 24 bộ
binh Mỹ được không vận từ Nhật Bản sang Pusan ở mạn nam Hàn Quốc. Ngày 7-7,
Liên hợp quốc thông qua nghị quyết tổ chức quân đội LHQ giúp Hàn Quốc tác
chiến, ngoài quân Mỹ ra, 39 ngàn quân của 15 nước được cừ sang Triều Tiên.
Tướng Mỹ McArthur được cử làm Tổng tư lệnh quân đội LHQ, trung tướng Walker,
tư lệnh Quân đoàn 8 Mỹ trực tiếp chỉ huy liên quân trên chiến trường. Ngày
5-7, quân đội Triều Tiên đụng độ sư đoàn 24 Mỹ tại khu vực cách Seoul 48 km
về phía nam. Rồi với thế chẻ tre: tiếp tục tiến sâu về phương nam, chỉ trong
2 tháng đã tràn ngập phần lớn lãnh thổ Hàn Quốc, đẩy quân Mỹ ra bán đảo Pusan
trên vĩ tuyến 35.
Tướng
Waiker tổ chức phòng ngự tại Pusan, Lữ đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ hỗn hợp và sư
đoàn 2 bộ binh Mỹ đã kịp thời sang tham chiến. Ngày 15-8, Kim Nhật Thành ra
lệnh phải hoàn toàn giải phóng Nam Triều Tiên trong tháng 8. nhưng quân đội
của ông lúc này đã như tên bay hết tầm, bị thương vong nặng nề mà không vượt
qua nổi phòng tuyến Pusan.
Ngày
28-6, Hạm đội 7 Mỹ từ Philippines đi vào eo biển Đài Loan nhằm kiềm chế Trung
Quốc. Mao Trạch Đông nhậy bén nhận ra Mỹ đưa quân sang Triều Tiên có thể đảo
ngược cục diện chiến tranh. Từ giữa tháng 7 đến đầu tháng 9, Mao đã ba lần
nhắc nhở Kim phải quan tâm đến hậu phương, bảo vệ đường giao thông, đề phòng
Mỹ đổ bộ lên Incheon. Nhưng Kim Nhật Thành hy vọng đánh nhanh thắng nhanh,
không chịu điều chỉnh chiến lược.
Ngày
15-9, McArthur cho Quân đoàn 10 Mỹ và 5.000 linh thuỷ đánh bộ Hàn Quốc được
260 tàu chiến và 500 máy bay phối hợp đổ bộ chiếm Incheon, cắt đứt đường tiếp
tế của quân đội Bắc Triều Tiên. Mười ngày sau, quân Mỹ chiếm Seoul, rồi chia
làm hai cánh tiến ra vĩ tuyến 38 theo ven biển miền dông và miền tây. Tám sư
đoàn chủ lực Bắc Triều Tiên bị cô lập tại mặt tràn Pusan, đã bị thương vong
58.000 người khi phá vây rút lui, ngày 1-10 rút về bắc vĩ tuyến 38, ngày
19-10 rút khỏi thủ dô Bình Nhưỡng. Kim Nhật Thành và cơ quan lãnh đạo đầu não
Bắc Triều Tiên chạy ra Kangke cách Trung Quốc 50 km. Sau khi chiếm Bình
Nhưỡng, quân đội LHQ theo nhiều ngả tiến về phía biên giới Trung-Triều, Tướng
McArthur tuyên bố “sông Áp Lục không phải là trở ngại không thể vượt qua”.
|
TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam
Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2014
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Loading...