TIN NÓNG HOÀNG SA-TRƯỜNG SA, BIỂN ĐÔNG (VIỆT NAM)

Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2014

(TNBBB) - Các đại sứ Việt Nam lên tiếng về Biển Đông trên báo chí thế giới


(TNBĐ) - Ngày 17/6, báo The Australia đã đăng bài viết của Đại sứ Việt Nam Lương Thanh Nghị liên quan đến quan điểm của phía Việt Nam về việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trong vùng biển Việt Nam. Trước đó, Đại sứ Việt Nam tại Mỹ, Đại sứ Việt Nam tại Indonesia cũng đã lên tiếng trên đài truyền hình Mỹ, báo chí Indonesia... về vụ việc này.


Đại sứ Việt Nam tại Australia: Việt Nam có chủ quyền với Hoàng Sa từ thế kỷ 17
Trong bài viết đăng trên the Australia ngày 17/6, Đại sứ Lương Thanh Nghị khẳng định: "Việc Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương-981 của Tổng Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam thể hiện một hành động khiêu khích và leo thang căng thẳng của Trung Quốc trên Biển Đông.
Hành động này của Trung Quốc vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam được quy định trong Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS), cũng như Tuyên bố của các bên trên Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc và ASEAN đã ký kết vào năm 2002, cản trở tự do hàng hải và gây bất ổn về an ninh và hòa bình trong khu vực".
Đại sứ Lương Thanh Nghị khẳng định Việt Nam có đủ bằng chứng lịch sử đáng tin cậy và những chứng cứ pháp lý vững chắc để khẳng định việc chiếm giữ các hòn đảo này một cách hòa bình và liên tục quản lý một cách hiệu quả quần đảo Hoàng Sa qua nhiều thế hệ kể từ thế kỷ 17. 
Trong khi đó, đến năm 1974, Trung Quốc đã dùng vũ lực để chiếm đóng quàn đảo này. Việt Nam chưa bao giờ chấp thuận hành động chiếm đóng trái phép của Trung Quốc và đã liên tục khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa.
Khi Bắc Kinh đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam, lấy lý do bảo vệ giàn khoan trái phép này, Bắc Kinh cũng điều 120 tàu trong đó có cả tàu chiến vào vùng biển Việt Nam cùng với máy bay chiến đấu và nhiều lần cố tình đâm va, phun vòi rồng với các tàu chấp pháp, tàu cá của Việt Nam. Tàu Trung Quốc còn ngang ngược đâm chìm tàu cá Việt Nam khiến tính mạng ngư dân bị đe dọa....
Đại sứ cũng chỉ ra rằng, những hành động của phía Trung Quốc đã ngăn cản tự do hàng hải và đe dọa đến an toàn của các tàu thương mại và tàu cá đi lại trên Biển Đông.
Đồng thời, Đại sứ cũng khẳng định Việt Nam thống nhất đấu tranh bằng phương pháp ngoại giao, hòa bình. Việt Nam cũng đã cố liên lạc trực tiếp với Trung Quốc hơn 30 lần nhưng không được hồi đáp thỏa đáng.
Dẫn lại lời của Đại sứ Trung Quốc tại Australia Mã Triều Húc: "Trung Quốc và Việt Nam là 2 nước láng giềng. Mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước là vì lợi ích của nhân dân 2 nước", Đại sứ cũng một lần nữa khẳng định quan điểm của Việt Nam mong muốn hợp tác với Trung Quốc đề giải quyết căng thẳng bằng phương pháp hòa bình và dựa trên luật pháp quốc tế.
Đại sứ Việt Nam tại Indonesia: Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập đến Hoàng Sa - Trường Sa

Trước đó, ngày 27/5, Đại sứ Việt Nam tại Indonesia Nguyễn Xuân Thủy cũng đã có bài viết đăng trên báo Bưu điện Jakarta phản bác các luận điệu sai trái mang tính xuyên tạc về vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong bài viết của Đại diện lâm thời Đại sứ quán Trung Quốc tại Indonesia Lưu Hồng Dương đăng trên báo này số ra ngày 20/5. 
Bằng các cứ liệu lịch sử, Đại sứ Nguyễn Xuân Thủy chỉ ra rằng, việc tác giả Lưu Hồng Dương khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc là một quan điểm sai lầm. Đại sứ Nguyễn Xuân Thủy cũng nêu rõ ông Lưu Hồng Dương đã cố ý trích dẫn sai nội dung bức công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 như một sự công nhận công khai chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và các quần đảo khác.
Trong bức công thư, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập từ nào về lãnh thổ của Trung Quốc, ít nhất là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà chỉ ghi nhận và ủng hộ tuyên bố vùng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Hơn nữa, bức công thư không đề cập các quần đảo này do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang được đặt dưới sự quản lý của Việt Nam Cộng hòa.
Đại sứ Việt Nam tại Mỹ: Trung Quốc cố biến khu vực không có tranh chấp thành có tranh chấp
Đến ngày 28/5, Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Nguyễn Quốc Cường đã trả lời phỏng vấn trên kênh truyền hình Mỹ CNN bác bỏ luận điệu sai trái từ phía Trung Quốc về vấn đề giàn khoan. 
Nói về việc Bắc Kinh đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam, Đại sứ Nguyễn Quốc Cường nhấn mạnh: "Đó là sự vi phạm nghiêm trọng chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam. Người Việt Nam không có cách nào khác ngoài việc phản ứng một cách hòa bình nhưng kiên quyết".
Trong cuộc phỏng vấn này, Đại sứ cũng phản bác luận điệu của đại sứ Trung Quốc tại Mỹ, của Ủy viên Quốc vụ viện Dương Khiết Trì, đồng thời thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền. Việc Trung Quốc nói rằng tại vùng biển này Trung Quốc chỉ có một giàn khoan, trong khi Việt Nam có hơn 30 giàn. Đại sứ cho rằng, Trung Quốc đang tìm cách tạo ra thực tế mới bằng cách thay đổi hiện trạng, cố biến khu vực không có tranh chấp thành có tranh chấp. 
Đại sứ Cường cho hay, Việt Nam muốn quan hệ tốt với Trung Quốc, Mỹ và các nước khác, nhưng không thể chấp nhận sự cưỡng ép, đe dọa. 
"Không một nước nào có thể đánh giá thấp quyết tâm của người Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền của chúng tôi. 100% người Việt, dù sống ở đâu, ở Việt Nam, ở Mỹ hay ở một nước khác, chúng tôi đều tin rằng đối với người Việt, không gì quý hơn độc lập tự do" - Đại sứ Cường khẳng định.
Sự việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trong vùng biển Việt Nam đã xảy ra gần 2 tháng nhưng vẫn chưa có dấu hiệu "hạ nhiệt" do Trung Quốc vẫn ngoan cố không chịu rút giàn khoan. Việt Nam vẫn kiên trì với các biện pháp đấu tranh hòa bình, kiên quyết yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan khỏi lãnh hải Việt Nam. Trong 3 nhóm giải pháp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đưa ra để đấu tranh với Trung Quốc trong vụ việc giàn khoan thì nhóm giải pháp thứ 3 chính là đấu tranh bằng dư luận, thông tin trung thực cho nhân dân và cộng đồng quốc tế hiểu rõ hành vi xâm phạm lãnh thổ của Trung Quốc cũng như các biện pháp đấu tranh hòa bình của Việt Nam. Việc các Đại sứ Việt Nam tại các nước nói rõ hành vi vi phạm của Trung Quốc trên báo chí thế giới chính là phương cách hiệu quả để người dân các nước này hiểu rõ bản chất sự việc, từ đó ủng hộ cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam.

 TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

(TNBĐ) - Sự thật lịch sử về Hoàng sa, Trường sa trong hội thảo Quốc tế







(TNBĐ) - TIN NÓNG BỂN ĐÔNG (TNBD) https://www.facebook.com/tinnonghoangsavietnam

(TNBĐ) - Thấy và ghi từ Hoàng Sa

Thuyền trưởng Lê Trung Thành - tàu CSB 4003 - ngoài cùng bên trái cùng đồng đội tiến vào khu vực giàn khoan.    ảnh: Trần Tuấn

(TNBĐ) - Vậy là tôi vừa xin ở lại Hoàng Sa thêm ít ngày, khi chỉ huy thông báo về tàu CSB 4033 mà tôi đang có mặt về kế hoạch rút các nhà báo vào lại bờ. Thấm thoắt đã tròn 1 tuần có mặt ở Hoàng Sa tính tới thời điểm đó, tiệm cận gần nhất có thể giàn khoan Hải Dương 981.
 “Không được lùi!”
Một tuần tiếp tục những cuộc quần thảo giữa các tàu của hai bên. Bọt sóng Hoàng Sa tung trắng xóa dữ dội theo những đuôi tàu. Đã tốn biết bao giấy mực, công sức của ta cũng như truyền thông quốc tế về cái giàn sắt khổng lồ và lỳ lợm này. 
Những lần tiếp cận thật gần, tôi cố nhìn thật sâu vào nó bằng mắt thường, như mọi đôi mắt bình thường của người dân Việt Nam. Để nghĩ ngợi thật nhiều điều. Ban ngày trông nó đen đủi mang dáng của một thằng người dạng chân đứng sững với đôi vai to bè, thô kệch. 
Như một kẻ đần độn, vô tri. Vây xung quanh đứa to xác ấy là một lũ lâu la gồm từng lớp tàu quân sự, tàu tên lửa, quét mìn, hải cảnh, hải giám, hải tuần, tàu đầu kéo…, lúc này cũng ra vẻ sừng sộ, hùng hổ.
Thường có mặt trên buồng lái tàu CSB 4033, tôi vẫn nghe tiếng lũ lâu la ấy nói chuyện như với chính mình. Ấy là mỗi khi tàu ta tăng tốc tiến áp sát vào khu vực giàn khoan làm nhiệm vụ, thì lập tức trên loa bắt được sóng tàu Trung Quốc ậm ọe phát ra lời dậm dọa bằng hai thứ tiếng Trung và Việt. 
Đại loại “các tàu Việt Nam chú ý, đây là vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc. Yêu cầu rời khỏi ngay lập tức, nếu không mọi hậu quả các anh phải chịu trách nhiệm hoàn toàn”. Tuy nhiên, vẻ “lịch sự” ấy không giữ được bao lâu. Khọt khẹt trên loa nhiều lần văng ra thứ ngôn ngữ cục súc: “Tàu 4033, muốn làm gì đó? Muốn chết à ?!”.
Thuyền trưởng trẻ 4033 Lê Trung Thành có lẽ quá nhàm với kiểu dọa nạt “đầu gấu” đó, vẫn tỉnh bơ kể nốt câu chuyện tiếu lâm, rồi nghêu ngao đọc mấy câu thơ trong sách giảng văn. (Lúc này ngồi trên tàu 8003 viết đến dòng này, sực nhớ anh chàng thuyền trưởng 31 tuổi quê miền biển Đức Phổ - Quảng Ngãi là dân rất “chịu” đọc sách. 
   
Anh chàng còn đang “nợ” hai cuốn sách tôi mang theo từ nhà để đọc, anh mượn đọc đến khi chuyển sang tàu khác tôi quên chưa kịp “đòi”!). Dù ai cũng biết chỉ ít phút nữa thôi, mặt biển Hoàng Sa đang lặng tờ xanh thẫm kia sẽ lại cuồn cuộn tung bọt trắng xóa trong cuộc quần thảo dữ dội với các tàu hùng hục húc tới của Trung Quốc. “Nó chăm sóc mình kỹ lắm, mình chỉ hơi nhích tới một chút là nó đọc loa cảnh cáo, hăm dọa, rồi xông tới “chiến” ngay với mình” - Thành nói.
Sau mới hay chuyện là thế này. Rằng tàu 4033 của Vùng CSB 2 khi làm nhiệm vụ thường chở theo các phóng viên, nhất là phóng viên nước ngoài. Tàu luôn tìm cách tiếp cận gần nhất giàn khoan 981 cho báo chí lấy được những hình ảnh, thước phim làm bằng chúng về sự ngang ngược của Trung Quốc. 
Như “trận” trưa ngày Chủ nhật (15/6), tàu 4033 chạy quần nhau với tốc độ rất cao với các tàu Trung Quốc. Biển tung bọt trắng xóa cao tới vài mét, trong tiếng gầm rú động cơ, tiếng còi hú, tiếng loa… Sau cả tiếng đồng hồ, cuối cùng tàu hải cảnh Trung Quốc số hiệu 32101 đành bỏ cuộc.
Những ngày đầu ở Hoàng Sa, có lúc Trung Quốc huy động vài chục tàu các loại lao vào xé lẻ đội hình tàu thực thi pháp luật của ta. Cứ mấy tàu vây hãm lấy một tàu ta, điên cuồng đâm phá, bắn vòi rồng… Tình huống bốn phía đều nóng bỏng, khốc liệt, ống kính các phóng viên cũng “rối” không biết hướng vào đâu. Mệnh lệnh của cấp trên: “Không được lùi!”. 
Thế là CSB 4033 cùng đồng đội liên tục tìm cách phá vây để rồi lại dũng mãnh tiến lên phía trước. “Không được lùi!”, thật khó thể nào quên mệnh lệnh sắt ấy giữa Hoàng Sa trong những thời khắc khốc liệt nhất…
Tôi xuống tàu giữa lúc trời đang giông gió, biển động mạnh bởi trận áp thấp đầu mùa trên biển Đông tại khu vực Hoàng Sa. Mọi tưởng tượng cũng như kỹ năng đề phòng sóng gió từ những đồng nghiệp đi trước bày vẽ đều không mấy hiệu nghiệm. 
Trong người lúc nào cũng giắt kè kè mấy túi nôn. Hai ngày hai đêm trên tàu CSB 2016 dạng “thấp bé nhẹ cân” hành trình ra biển, hai chục phóng viên trong và ngoài nước ai nấy lử lả, bỏ cơm nằm yên thả tự do theo nhịp trôi lắc của tàu. Mãi rồi mưa cũng ngớt, sóng gió cũng đằm. Mây mù tan ra, rồi cũng đến lượt trăng. Mới nhớ ra lúc xuất bến đúng ngày rằm.
Trăng theo tôi từ tàu 2016, sang 4032, rồi 4033, sau đó lên CSB 8003. Bốn lần chuyển tàu chỉ chưa đầy một tuần, để được bám mọi cánh quân trong những đội hình khác nhau. Những đêm bên mạn tàu, tôi ngồi nhìn trăng đổ xòa trên biển thứ bột vàng lóng lánh. Đại dương doãng ra rồi co lại duềnh doàng. Sự lãng mạn có cần thiết không, ở nơi này, trong những ngày này?
Như một sáng trên tàu CSB 4032. Tàu khi ấy đang cơ động vào tiếp cận giàn khoan, đã vào được dưới 8 hải lý. Tôi chợt để ý thấy một con bướm cánh màu trắng nhạt bay đậu dập dờn trên mặt boong sau. Dưới biển, bọt trắng xóa bắn tung cả lên mạn tàu. Một chốc sau, cánh bướm tí hon chập chững bay hẳn ra ngoài mặt biển. 
Thoáng lo, không biết nó có quay về lại với tàu được không? Cánh bướm mỏng làm sao chọi được với đại dương vợi thẳm? Tối đến đem câu chuyện về con bướm kể lại với Thiếu tá Hoàng Quốc Đạt – Hải đội trưởng Hải đội 201 (Vùng Cảnh sát biển 2) và thuyền trưởng Vũ Trọng Huân. 
Và thắc mắc không biết có phải nó theo tàu từ bờ, những ngày giông bão nấp trong đống bạt, nay nắng ráo đẹp trời mới bay ra? Anh Đạt, và Huân bảo chắc là vậy. Chứ có cánh bướm nào bay ra được tới nơi này đâu. Lẩn thẩn nghĩ về con bướm ấy mất mấy ngày. Rồi lại nghĩ sang chuyện con người, tình người. Ngồi với Đại tá Lưu Tiến Thắng - Phó Chủ nhiệm chính trị Bộ Tư lệnh CSB VN trên tàu 8003, nghe ông hồi tưởng lại những chuyến tuần tra chung với  các tàu hải cảnh, hải giám Trung Quốc trên vịnh Bắc bộ, trong khuôn khổ Hiệp định nghề cá giữa ta và Trung Quốc tại khu vực này. 
Mà chuyến đi cùng nhau gần nhất cũng mới trung tuần tháng Tư đây thôi. Chuyện này cũng đã có phóng viên viết rồi. Nhưng tôi nghe ra vẻ buồn gì đó sâu xa hơn từ sau tiếng thở dài của ông. Câu chuyện với Đại tá Thắng vừa dứt lúc trưa, thì ngay đầu giờ chiều 18/6, “người bạn” của tàu CSB 8003 lù lù xuất hiện cách bên mạn trái chỉ chừng đôi trăm mét. Đó là tàu hải cảnh Trung Quốc số hiệu 3210 sơn màu trắng to lớn dềnh dàng. 
Cùng với CSB 8003, thì tàu hải cảnh 3210 là những “kỳ hạm” (tàu chỉ huy) của hai bên trong những chuyến tuần tra chung nghề cá. Đôi tàu từng nhiều lần cập mạn bước sang với nhau để giao lưu hữu nghị. Nhưng giờ, giữa Hoàng Sa, câu chuyện đã khác hoàn toàn. Hải cảnh 3210 được phân công kèm chặt CSB 8003 từ những ngày đầu Hoàng Sa đến nay. 
Có điều, trong những tình huống đối đầu, có vẻ nó ít tỏ ra thực sự hung hãn như những tàu khác của Trung Quốc. Mỗi lần áp sát, quan sát thấy trên boong và mạn tàu hải cảnh 3210 thỉnh thoảng xuất hiện những bóng người đứng nhìn sang. Điều hầu như không thấy ở những tàu khác của Trung Quốc. Đại tá Thắng ưu tư: “Dường như cũng có không ít người Trung Quốc cảm thấy phân vân khó xử trước sự phi lý, vô lý trong việc làm của mình theo lệnh trên chỉ đạo”.
Loading...